Ngày mai 13-03 - Quý Tỵ, kỷ niệm ngày quy Thiên của Đức Ngô Minh Chiêu.
Vào đầu tháng tư vừa qua, HQ có một chuyến về Tân An thăm lại ngôi nhà mà Đức Ngô lúc sinh tiền ở và làm quan một thời gian trước Ngài chuyển ra Hà Tiên!
Nhân ngày Quy Thiên của Đức Ngô Minh Chiêu! HQ ôn lại thời nithe61ie61u và lúc Ngài sống ở Tân An:
I. THỜI KỲ NIÊN THIẾU:
a) Lúc thơấu. - Đức Ngô-Văn-Chiêu, đạo-hiệu Ngô-Minh-Chiêu, thuộc dòng-dõi một Quan Thị-Lang của Triều-Đình Huế, nhân lúc Quốc-Gia loạn-lạc (1851-1866) di cư vào Nam, sinh nghiệp tạm ở Khu Hòa-Hưng (ngoại ô Sài-Gòn - Chợ-Lớn). Thân phụ Ngài là Ông Ngô-Văn-Xuân sánh duyên với Bà Lâm-Thị-Quí. Ngày mùng 7 tháng giêng năm Mậu-Dần (28-2-1878) bà hạ sanh người con duy nhứt là Đức Ngô-Văn-Chiêu. Ngài ra đời nơi quê mẹ tại Bình-Tây (Chợ-Lớn). Trong một căn nhà lá nhỏ, ở vùng nê-địa, phía sau ngôi chùa Quan-Thánh (còn gọi là Chùa Ông Nhỏ).(1)
Khi sanh ra, Ngài không chịu bú sữa, mà nếu có ép cho bú thì mình mẩy lại sưng phù lên, cho nên bà thân Ngài phải cho uống nước cơm với đường, lần lần tập cho ăn cháo, rồi ăn cơm.
Ít năm sau ông thân và bà thân Ngài tìm được việc làm, phải đi Hà-Nội, mới đem gởi cho người em gái ở Mỹ-Tho. Lúc đó, Ngài vừa được 6 tuổi. Cô của Ngài tên Ngô-Thị-Đây có chồng khách-trú bán thuốc bắc và cây ván, cũng khá giả nên nhận nuôi.
b) Lúc đi học. - Nhỏ tuổi, sớm lìa cha mẹ, từng trải cực khổ, Ngài rất cố gắng học hành. Nhưng một hôm vì chúng bạn lôi cuốn, nên bỏ hai ngày học, và bị cô quở, đánh. Ngài ăn năn khóc hoài và từ đó không bao giờ tái phạm nữa.
Năm được 12 tuổi, Ngài đánh bạo tới nhà Ông Đốc Phủ Sủng, tùng sự tại Toà Hành-Chánh Mỹ-Tho, chỗ quen với ông thân Ngài, nhờ chỉ bảo làm đơn, và giới thiệu với ông Chủ-Tỉnh để xin vô học nội trú ở trường Trung Học Mỹ Tho (bây giờ là trường Nam Trung Học Nguyễn Đình Chiểu). Mặc dầu còn nhỏ, Ngài cũng bạo dạn trình bày hoàn cảnh côi cúc nghèo nàn của mình: nhờ Ông Đốc Phủ Sủng thông ngôn, nên ông Chủ-Tỉnh chuẩn y lời xin của Ngài (2).
Ngài học ở đó và sau lên trường Chasseloup-Laubat Sài-Gòn (nay là trường Jean Jacques Rousseau) tiếp tục đến năm 21 tuổi thi đậu bằng Thành Chung và ngày 23 tháng 3 năm 1899 được bổ làm việc tại Sở Tân Đáo Sài Gòn cho tới ngày 31-12-1902.
II. LẬP GIA ĐÌNH:
Khi Ngài thành tài, thì người ân của Ngài là Ông Đốc Phủ Sủng muốn gả con gái cho. Việc đó làm cho Ngài đắn đo thắc mắc không ít vì không biết tính sao cho dung hòa được cảnh phú quí của ân nhân để khỏi phụ lòng thương của người với nếp sống thanh bạch tầm thường của cha mẹ mình. Cô của Ngài lại khuyên Ngài nên cưới vợ con nhà cần lao, đặng sau kia nếu có thất thế thì vợ con có thể đi làm lụng nuôi con được, chớ vợ sang trọng quá, e chịu cực khổ không quen.
Vì lẽ trên, Ngài vâng lời cô, tự hẹn sẽ tìm dịp đáp đền ân xưa của Ông Đốc Phủ Sủng, và kết hôn cùng bà Bùi-Thị-Thân, người làng Thạnh-Trị lúc bấy giờ đang buôn bán tại chợ Mỹ Tho.
Bà sanh được 9 lần: Người con đầu lòng tên Ngô-Thị-Ngữ chết, 5 ngày sau khi sanh tại Mỹ-Tho, kế đó là Ngô-Thị-Hồng lại chết năm 3 tuổi ở Sài-Gòn.
Tư: Ngô-Thị-Yến-Ngọc.
Năm: Ngô-Thị-Nguyệt.
Sáu: Ngô-Văn-Nhựt.
Bảy: Ngô-Văn-Tinh.
Tám: Ngô-Tường-Vân.
Chín: Ngô-Thanh-Phong.
Mười: Ngô-Khai-Minh.
Ngài sống thanh bần, làm việc hết mực liêm chính lại hay giúp đỡ người hoạn nạn túng quẫn nên ít có tiền dư.
Nhưng sau đó ít lâu Ngài cũng có mua một cái nhà lá với giá $60.00 trên một khu đất mướn, ở đường Lagrange số 31 tỉnh Tân An (bây giờ là đường Phan Đình Phùng) và cất lại thành 3 căn lợp ngói. Ngôi nhà nầy vẫn còn và hiện nay hai người con gái thứ tư và thứ năm của Ngài ở đó.
III. BƯỚC HOẠN LỘ:
a) Ở Sài-Gòn - Làm việc tại Tòa Tân Đáo từ ngày 23-3-1899 đến ngày 31-12-1902, qua 1-1-1903 thì Ngài đổi về tùng sự tại Dinh Thượng-Thơ cho tới 30-4-1909.
b) Về Tân-An - Qua 1-5-1909, Ngài được đổi về làm việc tại Tòa Hành Chánh Tân An. Qua năm 1917, thi đỗ Tri Huyện. Với chức vị mới, quyền hành có nhiều thêm, nhưng Ngài vẫn một mực không đổi tánh.
c) Đi Hà-Tiên - Đầu năm 1920, buồn vì mẹ mới tạ thế lại không muốn liên can vào công việc thiếu liêm chánh của vài bạn đồng liêu nên Ngài quyết định đưa đơn xin đổi đi Hà Tiên.
Vì lòng quí Ngài, các bạn hữu đặt tiệc tiễn hành nhưng Ngài không nhận, nên có vài ông làm thi tặng: Ông Cai Tổng Nhơn ở Tân An gởi cho Ngài một bài thi như sau:
Khi HQ thăm lại nhà Ngài ở Tân An! thì không còn nhà gỗ như xưa! người bạn nói rằng hồi đó có xuống một lần ngôi nhà lúc đó bằng gỗ theo thời gian không còn cứng cáp! và năm 2008 người cháu của Ngài cho xây dựng lại! tuy nhiên kiến trúc để nguyên như nhà cũ chỉ khác là tường gạch - bê tông:
Vào đầu tháng tư vừa qua, HQ có một chuyến về Tân An thăm lại ngôi nhà mà Đức Ngô lúc sinh tiền ở và làm quan một thời gian trước Ngài chuyển ra Hà Tiên!
Nhân ngày Quy Thiên của Đức Ngô Minh Chiêu! HQ ôn lại thời nithe61ie61u và lúc Ngài sống ở Tân An:
I. THỜI KỲ NIÊN THIẾU:
a) Lúc thơấu. - Đức Ngô-Văn-Chiêu, đạo-hiệu Ngô-Minh-Chiêu, thuộc dòng-dõi một Quan Thị-Lang của Triều-Đình Huế, nhân lúc Quốc-Gia loạn-lạc (1851-1866) di cư vào Nam, sinh nghiệp tạm ở Khu Hòa-Hưng (ngoại ô Sài-Gòn - Chợ-Lớn). Thân phụ Ngài là Ông Ngô-Văn-Xuân sánh duyên với Bà Lâm-Thị-Quí. Ngày mùng 7 tháng giêng năm Mậu-Dần (28-2-1878) bà hạ sanh người con duy nhứt là Đức Ngô-Văn-Chiêu. Ngài ra đời nơi quê mẹ tại Bình-Tây (Chợ-Lớn). Trong một căn nhà lá nhỏ, ở vùng nê-địa, phía sau ngôi chùa Quan-Thánh (còn gọi là Chùa Ông Nhỏ).(1)
Khi sanh ra, Ngài không chịu bú sữa, mà nếu có ép cho bú thì mình mẩy lại sưng phù lên, cho nên bà thân Ngài phải cho uống nước cơm với đường, lần lần tập cho ăn cháo, rồi ăn cơm.
Ít năm sau ông thân và bà thân Ngài tìm được việc làm, phải đi Hà-Nội, mới đem gởi cho người em gái ở Mỹ-Tho. Lúc đó, Ngài vừa được 6 tuổi. Cô của Ngài tên Ngô-Thị-Đây có chồng khách-trú bán thuốc bắc và cây ván, cũng khá giả nên nhận nuôi.
b) Lúc đi học. - Nhỏ tuổi, sớm lìa cha mẹ, từng trải cực khổ, Ngài rất cố gắng học hành. Nhưng một hôm vì chúng bạn lôi cuốn, nên bỏ hai ngày học, và bị cô quở, đánh. Ngài ăn năn khóc hoài và từ đó không bao giờ tái phạm nữa.
Năm được 12 tuổi, Ngài đánh bạo tới nhà Ông Đốc Phủ Sủng, tùng sự tại Toà Hành-Chánh Mỹ-Tho, chỗ quen với ông thân Ngài, nhờ chỉ bảo làm đơn, và giới thiệu với ông Chủ-Tỉnh để xin vô học nội trú ở trường Trung Học Mỹ Tho (bây giờ là trường Nam Trung Học Nguyễn Đình Chiểu). Mặc dầu còn nhỏ, Ngài cũng bạo dạn trình bày hoàn cảnh côi cúc nghèo nàn của mình: nhờ Ông Đốc Phủ Sủng thông ngôn, nên ông Chủ-Tỉnh chuẩn y lời xin của Ngài (2).
Ngài học ở đó và sau lên trường Chasseloup-Laubat Sài-Gòn (nay là trường Jean Jacques Rousseau) tiếp tục đến năm 21 tuổi thi đậu bằng Thành Chung và ngày 23 tháng 3 năm 1899 được bổ làm việc tại Sở Tân Đáo Sài Gòn cho tới ngày 31-12-1902.
II. LẬP GIA ĐÌNH:
Khi Ngài thành tài, thì người ân của Ngài là Ông Đốc Phủ Sủng muốn gả con gái cho. Việc đó làm cho Ngài đắn đo thắc mắc không ít vì không biết tính sao cho dung hòa được cảnh phú quí của ân nhân để khỏi phụ lòng thương của người với nếp sống thanh bạch tầm thường của cha mẹ mình. Cô của Ngài lại khuyên Ngài nên cưới vợ con nhà cần lao, đặng sau kia nếu có thất thế thì vợ con có thể đi làm lụng nuôi con được, chớ vợ sang trọng quá, e chịu cực khổ không quen.
Vì lẽ trên, Ngài vâng lời cô, tự hẹn sẽ tìm dịp đáp đền ân xưa của Ông Đốc Phủ Sủng, và kết hôn cùng bà Bùi-Thị-Thân, người làng Thạnh-Trị lúc bấy giờ đang buôn bán tại chợ Mỹ Tho.
Bà sanh được 9 lần: Người con đầu lòng tên Ngô-Thị-Ngữ chết, 5 ngày sau khi sanh tại Mỹ-Tho, kế đó là Ngô-Thị-Hồng lại chết năm 3 tuổi ở Sài-Gòn.
Tư: Ngô-Thị-Yến-Ngọc.
Năm: Ngô-Thị-Nguyệt.
Sáu: Ngô-Văn-Nhựt.
Bảy: Ngô-Văn-Tinh.
Tám: Ngô-Tường-Vân.
Chín: Ngô-Thanh-Phong.
Mười: Ngô-Khai-Minh.
Ngài sống thanh bần, làm việc hết mực liêm chính lại hay giúp đỡ người hoạn nạn túng quẫn nên ít có tiền dư.
Nhưng sau đó ít lâu Ngài cũng có mua một cái nhà lá với giá $60.00 trên một khu đất mướn, ở đường Lagrange số 31 tỉnh Tân An (bây giờ là đường Phan Đình Phùng) và cất lại thành 3 căn lợp ngói. Ngôi nhà nầy vẫn còn và hiện nay hai người con gái thứ tư và thứ năm của Ngài ở đó.
III. BƯỚC HOẠN LỘ:
a) Ở Sài-Gòn - Làm việc tại Tòa Tân Đáo từ ngày 23-3-1899 đến ngày 31-12-1902, qua 1-1-1903 thì Ngài đổi về tùng sự tại Dinh Thượng-Thơ cho tới 30-4-1909.
b) Về Tân-An - Qua 1-5-1909, Ngài được đổi về làm việc tại Tòa Hành Chánh Tân An. Qua năm 1917, thi đỗ Tri Huyện. Với chức vị mới, quyền hành có nhiều thêm, nhưng Ngài vẫn một mực không đổi tánh.
c) Đi Hà-Tiên - Đầu năm 1920, buồn vì mẹ mới tạ thế lại không muốn liên can vào công việc thiếu liêm chánh của vài bạn đồng liêu nên Ngài quyết định đưa đơn xin đổi đi Hà Tiên.
Vì lòng quí Ngài, các bạn hữu đặt tiệc tiễn hành nhưng Ngài không nhận, nên có vài ông làm thi tặng: Ông Cai Tổng Nhơn ở Tân An gởi cho Ngài một bài thi như sau:
Cám cảnh Huyện quan đã lắm nhiều.
Đau lòng đi ở biết bao nhiêu,
Hà Tiên tách dặm lòng khoăn khoái,
Cù Úc chia trời luống quạnh hiu,
Bẻ liễu trông theo vò chín khúc,
Nhành mai toan gởi quặn trăm chiều,
Cái phần nam tử xưa nay vẫn,
Cầu chúc cho Ông nổi tiếng biêu.
Ông Trần Phong Sắc và Ông Cao Văn Lỏi cũng tiễn hành Ngài với bài chúc như vầy:
Nay Trưởng Tòa đãi tiệc,
Đưa Quan Huyện lên đường:
Nhóm bạn vàng đủ mặt hiền lương,
Dưng lời chúc đưa người phước đức.
Từ thi đỗ Ông lên Quan chức,
So tánh thường người ở trung dung.
Tổng làng cám cảnh không cùng,
Há phải quan yêu thì bạn ghét.
Dân chúng kính thương chi xiết,
Thiệt là gần mến lại xa trông.
Tánh thanh liêm giữ mực chí công.
Lòng trung hậu vẹn câu chỉ tín.
Yến-Bình-Trọng giao lâu càng kỉnh,
Hứa-Kỉnh-Chi nhơn trọng đặng truyền.
Nay chỉ sai thuyên nhậm Hà Tiên,
Nên mình tách tạm ly Cù-Úc.
Mới biết người lành Tri trả phúc,
Đã thêm lương lại đặng thêm quyền.
Cho hay lòng tốt dễ tầm Tiên,
Khi dạo núi, có khí dạo nước.
Nhằm ngày rảnh du hồ hóng mát,
Sò huyết kia, khô mực nọ,
Đưa theo chén rượu Thanh-Liên.
Gặp đêm thanh thưởng nguyệt giải phiền.
Sầu riêng ấy, Phật thủ nầy,
Phụ với bình trà Bạch Cúc.
Cảnh Tiên người chẳng tục,
Say vui sơn thủy khác tình trần.
Lòng chánh ứng như thần,
Khuyên dạy hiền lương nuôi kẻ khó.
Xem phong cảnh một mình vui thể đó,
Có ngày đem gia quyến sum vầỵ
Tiệc tiễn hành các bạn nhóm nơi đây,
Còn khi gặp tri âm bàn bạc.
Cơn hẩm hút vì tình lợt lạt,
Lời quê mùa tỏ dạ mặn nồng.
Tiệc hôm rồi đã nhượng mấy Ông,
Thơ bực chót xin dưng năm vận.
Vậy có thi rằng:
Mừng nay Quan Huyện đổi Hà Tiên,
Có đức Trời cho đặng có quyền.
Trăm dặm Vũng-Gù còn tiếng mến,
Một đường sau trước nổi danh hiền.
Hòn-Nghê cầm báu đưa theo gió,
Đảnh-Hạc hoa tươi rắm tới triền.
Âm chất sẽ ngồi xe ngựa mã,
Trùng phùng đồng ước hội Đào-Viên.
Bữa 1-3-1920, Ngài rời Tân-An để đi Hà-Tiên.
Khi HQ thăm lại nhà Ngài ở Tân An! thì không còn nhà gỗ như xưa! người bạn nói rằng hồi đó có xuống một lần ngôi nhà lúc đó bằng gỗ theo thời gian không còn cứng cáp! và năm 2008 người cháu của Ngài cho xây dựng lại! tuy nhiên kiến trúc để nguyên như nhà cũ chỉ khác là tường gạch - bê tông:
( Trước khi xây nhà mới năm 2008, Cháu củ Đức Ngô chụp lại nhà củ và đóng khung treo trên tường)
( Và ngôi nhà mới xây, kiến trúc vẫn giữ nguyên như nhà gỗ - trên bàn Thờ Đức Ngô có để một cái Gương! nghe Cháu Đức Ngô kể rằng cái gương này qua năm tháng nó vẫn vậy, không bị ố vàng)

( Và ngôi nhà mới xây, kiến trúc vẫn giữ nguyên như nhà gỗ - trên bàn Thờ Đức Ngô có để một cái Gương! nghe Cháu Đức Ngô kể rằng cái gương này qua năm tháng nó vẫn vậy, không bị ố vàng)
Sửa lần cuối: