2. ÂU CƠ – ĐẠI NAM THÁNH MẪU
Đức Lê Sơn Thánh Mẫu có chỉ rõ Đại Nam Thánh Mẫu là Âu Cơ đời Lạc Long Quân. Bà Âu Cơ khi xưa giáng sanh khai lập nước Nam chịu nhiều cay đắng rồi tu hành trở về cảnh cũ. Sau này được Thiên đình phong chức Đại Nam Thánh Mẫu. Từ đó đến nay, trên bốn ngàn năm lịch sử.
NGUYỆT MINH ĐÀI 12 tháng 3 năm Giáp Tuất (1934)
Mẹ mừng các con !
Thi
ĐẠI đồng khêu đuốc “Nữ Chung Hòa”,
NAM Việt chói ngời chín phẩm hoa;
THÁNH luật, Mẹ ban đời thới thạnh,
MẪU từ khuyên dựng nước âu ca.
DẠY đời tỉnh mộng theo đàng chánh,
ĐẠO thức người mê lánh nẽo tà,
NỮ liệt rỡ ràng nên Tứ đức,
PHÁI ân qui hiệp các con nhà.
Thập thủ liên hoàn
Bốn ngàn năm lẻ thọ ân Thiên,
Quyết dạy các con thỏa chí nguyền;
Gái liệt chuyên cần trau bốn cột,
Nữ tài sửa lập nét ba giềng.
Muôn năm tiếng Mẹ ngôi Tiên tạc,
Ngàn thuở danh con sử thánh biên;
Một hội phụng lân con Mẹ hiệp,
Vui nhàn cảnh báu tại cung Tiên !
Cung Tiên là cảnh hưởng muôn xuân,
Đạo Lý khuyên con gắng chí cần;
Mấy thuở gội nhuần nền hạnh phúc,
Bao phen đặng hưởng ngọn huyền ân.
Con hiền trỗ đức ra tài phụng,
Gái hiếu lập đời rạng vẽ lân;
Non Thánh có ngày chơn bước tới,
Rạng danh Nam Việt Nữ oai thần !
Oai Thần gắng sức tỉnh mê đời,
Mau kíp trở về chốn thảnh thơi;
Sớm tối kệ kinh vui lạc cảnh,
Trưa chiều thi vịnh hưởng nhàn ngôi.
Ngày Tiên tháng Phật hoa đua nở,
Đức Thánh, tài Thần bủa khắp nơi;
Mấy cảnh thanh tao tòa hực hỡ,
Đó là thoát đặng kiếp luân hồi.
Luân hồi thoát khỏi bước thang mây,
Cả tiếng khuyên con trổ đức tài;
Mở hội Chung Hòa cơ chuyển vận,
Lập nền chánh lý máy vần xây.
Chơn truyền Mẹ dạy lo hòa thuận,
Đạo đức con vâng chữ hiệp vầy;
Dắt chị dìu em về cảnh cũ,
Muôn năm lạc hứng lại vui say !
Vui say mùi Đạo lẽ thiên nhiên,
Non nước muôn xuân mới thoã nguyền;
Một hội Phong Thần, con có bản,
Ba kỳ sắc Thánh, Mẹ rành biên.
Ven mây thấy rõ mười phương Phật,
Vẹt gió mới hay chín phẩm Tiên;
Lân phụng ra tài cơn thống khổ,
Vẹn tròn phận sự mới con hiền.
Con hiền giữ dạ nét từ hiền,
Hằng nhớ sửa mình tánh nhẫn kiên;
Công hạnh trau giồi ra đức Thánh,
Dung ngôn tập sửa trổ tài Tiên.
Một nhành dương liểu con khai hóa,
Sáu chữ chơn ngôn Mẹ điểm truyền;
Mới biết Hạ Nguơn, Trời cứu thế,
Bảo an con dại thoát oan khiên.
Oan khiên chớ buộc khổ thân mình,
Gắng chí trau giồi khối điểm linh;
Chín phẩm độ đời cơn Mạt Kiếp,
Năm ngôi cứu thế quỷ Thần kinh.
Trên ban Thánh chỉ trừ tà vạy,
Dưới lãnh mạng hành luật chánh minh;
Rạng đuốc Chung Hoà con nữ phái,
Vui lòng đạo đức lập công trình !
Công trình khuya sớm trẻ cần lo,
Nẽo Phật đàng Tiên gắng chí dò;
Hai chữ tinh thần là chánh lý,
Một lòng đạo đức chớ quanh co.
Cơ mầu u hiển mau tầm kiếm,
Ngọc quý ẩn vi ráng sức mò;
Tiết liệt, trung trinh tua nhớ dạ,
Cõi trần nghĩ lại lắm gay go.
Gay go bước Đạo mới công cao,
Em chị chung tâm giữ một màu;
Gắng sức trau giồi lòng sắt đá,
Cần lo lừa lọc bỏ chì thau.
Nhành vàng, trái ngọc nào chua chát ?
Con Thánh cháu Thần có đớn đau ?
Mấy lúc Mẹ sầu đời chuyển đổi !
Bao phen lo liệu chí tiêu hao !
Tiêu hao non nước thấy thêm sầu,
Lẫn quẫn xem qua đã bạc đầu,
Ngãnh lại cuộc đời tuồng mộng ão;
Trộm nhìn thế sự cảnh bờ dâu !
Chi bằng mượn tấm từ phan Phật,
Cởi bỏ bụi trần lánh biển sâu !
Nhưng nghĩ vẫn còn tình cốt nhục,
Buộc lòng nắm chặt chữ lo âu.
[Cao Đài Giáo Lý số X năm thứ nhì, Février-Mars 1948 trang 29,30]