Gương Hướng Đạo - Ngài Liễu Tâm Chơn Nhơn

Trạng thái
Không mở trả lời sau này.

Hao Quang

New member
Gương Hướng Đạo của Ngài Liễu Tâm Chơn Nhơn

Ngài Liễu Tâm Chơn Nhơn Huỳnh Ngọc Trác sinh năm Mậu Tuất (1898) tại làng An Tráng, Phủ Thăng Bình, Quảng Nam, nay là xã Bình Sơn – Huyện Hiệp Đức, Quảng Nam. Tổ của Ngài vốn là người Minh Hương sang lập nghiệp ở đây đã 7 đời. Thân phụ Ngài là Huỳnh Quang Ý, thân mẫu là cụ Phan Thị Niệm. Ngài chỉ có 2 người em gái là Huỳnh Thị Hải và Huỳnh Thị Giai.

Lúc nhỏ Ngài tên là Huỳnh Quang Tứ, khi đi học thầy giáo Nguyễn Khoảnh đặt tên cho Ngài là Huỳnh Ngọc Trác, biệt hiệu là Lang Tuyền. Khi thọ giáo Minh Sư với đạo sư Võ Xuân Kỉnh ( Thầy Chín Phú Bông) Ngài có Pháp Danh là Huỳnh Kim Cốc.
<?XML:NAMESPACE PREFIX = O /><O:p></O:p>
Bản chất Ngài nhân từ đức độ, khoan dung, tính tình hiền hòa, khiêm nhượng và cởi mở lại rất hiếu học.

Năm 24 tuổi(1921, dù đã phát nguyện tu chứng Minh Sư độc than hành Đạo, Nhưng Ngài không dám cải lệnh song thân vò mang tội bất hiếu (bởi Ngài là con trai độc nhất), nên Ngài Ngài phải lập gia đình với bà Trần Chơn Bảo, một thiếu nữ đức hạnh ở cùng làng do song thân lựa chọn. Song đêm tân hôn hai người đốt đèn hàn huyên đạo sự, nói chuyện tu hành và đọc kinh cho nghe đến nỗi ông cụ than sinh phải nhắc nhở. Trong 3 đêm, Ngài dạy cho bà học thuộc một cuốn Kinh Minh Sư. Từ đó đến suốt cuộc đời, ông bà vẫn đối đãi nhau như khách quý và không lâu sau bà cũng theo chồng quy y tại chùa Tam Giáo. Bà Trần Chơn Bảo sau này cũng quy hiệp Cao Đài và liễu đạo tại Tam Kỳ và tháng 5 – Kỷ Dậu (1969) ở tuổi 76 với phẩm vị Hành Thiện

Ngài nghỉ học từ khi cưới vợ và cũng từ đấy nguyện hiến dâng cuộc đời cho đạo pháp và luôn nghiên cứu Kinh sách cả cựu học lẫn tân học cùng lo việc tu hành. Ngài rất uyên thâm nho học, lại biết tiếp thu tư tưởng Tây Phương. Ngài dạy rất nhiểu học trò, nên thường gọi là Thầy Giáo Hai. Bổn đạo quy y chùa ngày càng đông nên Ngài bị mật thám Pháp bắt giam ở tỉnh lộ 10 ngày khoản đầu năm 1931.Chính trong thời gian ngắn ngủi này, phụ thân Ngài ở nhà phát bệnh và từ trần Ngài không được thấy mặt để chịu tang.

Sau đó được về, Ngài cử tang xong, xin mẹ hiến cúng toàn bộ cơ sở nhà ruộng vườn cho chùa Tam Giáo của Ngài Trần Nuyên Chất ở cùng làng. Nhà Ngài trở thành trường học của chùa, Ngài thường giao du thân thiết với các nhà nho ở Huế như: cụ Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng….và luôn mở rộng kiến văn bằng kinh điển sách báo.
<O:p></O:p>
Năm 1938 Ngài Quy hiệp Cao Đài và trở thành Hướng Đạo cốt cán của Hội Thánh Cao Đài Miền Trung. Ngài thay mặt hội thánh đi hành đạo khắp các nơi không nề khó khăn nguy hiểm. Cuối cùng, Ngài thọ tai nạn ở Quảng Ngãi năm 1945

ĐẠO NGHIỆP

Chùa Tam Giáo của Ngài Trần – Huỳnh gồm 3 cơ sở lớn
- Tam Giáo điện: nơi tín ngưỡi của môn đồ Minh Sư
- Văn Chỉ: nơi thờ Đức Khổng Tử và là trường “Thánh Kinh Học Đường” dành cho thanh thiếu niên học
- Trường đào tạo mầm non (nhà Ngài Huỳnh) trong Đạo dưới sự hướng dẫn của Ngài về mọi mặt

Tại đây có cả một thư viện được kể là đồ sộ nhất ở vùng trung du này, có đủ các loại kinh điển, sách báo chữ nho, chữ quốc ngữ được thu nhập qua ngã Hội An và Đà Nẵng từ Trung Quốc và Nhật Bản, để nghiên cứu học hỏi trên tinh thần Tam Giáo.

Việc làm của Ngài được cụ Sào Nam Phan Bội Châu tâm đắc, qua nhiều lần hội kiến, cụ đã tặng Ngài câu đối treo tại giảng đường
“ vật vị dữ dân tộc lịch sử vô quan, tâm túy âu bì vong á tủy
Tu thực đắc cổ vãng kim lai nhất lý, căn bồi cựu cán dưỡng tân nha”

Nghĩa là: há có phải dân tộc và lịch sử không có mối quan hệ với nhau mà để lòng say mê vào cái bề ngoài của Âu Tây mà quên cái bền trong cốt tủy Á Đông, nên biết xưa nay qua lại vẫn nhất lý, nên vun bồi lấy gốc rễ củ mà nuôi dưỡng mầm chồi mới.

Và một câu khác treo ở cổng trường:

“từ thiên tử đến thứ dân, thảy đều phải sửa mình làm gốc
Trong gia đình ngoài xã hội, cũng phải vì có học mới nên”

Nhờ trung gian của Ngài Thái Lão Trần Đạo Quang, bậc sư tổ của đạo Minh Sư mà các Ngài Trần – Huỳnh đã biết đến Đạo Cao Đài.

Ngày 13/8 Đinh Sửu (1937) đoàn Truyền Giáo Cao Đài gồm Giáo sư Trần Công Ban, Nguyễn Quang Châu, Nguyễn Đán và cặp đồng tử Thanh Long – Bạch Hổ đã được Thánh Lệnh đến Viếng Tam Giáo với tinh thần “Tam Giáo Đồng Nguyên” của Cao Đài và tư tưởng “canh tân nho học” của 2 Ngài nên 2 bên gặp nhau rất tương đắc và có cảm ứng liền.
<O:p></O:p>
Nhờ mối giao hảo này mà đến ngày 8/4 Mậu Dần (1938), nhân lễ khánh thành Thánh Thất Trung Thành và Đại Hội Long Vân Đệ Bát tại Đà Nẵng thì 2 Ngài đã làm lễ Quy hiệp Cao Đài do Ngài Thái Lão Ngọc Chưởng Pháp Trần Đạo Quang chứng lễ và dĩ nhiên trước đó có sự đóng góp công quả của toàn thể các môn đồ Minh Sư vào việc xây cất Thánh Thát Trung Thành không phải là ít.

Với tình thâm giao sẵn có giữa Ngài và Cụ Phan Sào Nam từ trước, nên khi tổ chức khánh thành Thánh Thất Trung Thành tức trung tâm Truyền Đạo Trung Bắc, cụ đã gởi tặng câu đối mà hiện nay còn treo tại Trung Hưng Bửu Tòa Đà Nẵng

“ khế bách thánh, vu nhất tâm, thành tất minh hỉ, minh tất thành hỉ
Đoàn tam kỳ vu nhất thể, thiên hữu nhân yên, nhân hữu thiên yên”
<O:p></O:p>
Năm 1939 quyền Hội Thánh Trung Kỳ ra đời, Ngài được cử làm Hòa Viện Trưởng của Hội Thánh, Ngài luôn chịu khó lặn lội đó đây để hướng dẫn Đạo đồ tu học lập công. Trong dịp tổ chức Tiểu Hội Vạn Linh Ở Thánh Thất Trung An (Tam Giáo tự cũ) Ngài bị bắt cùng Ngài Trần Nguyên Chất và bị phát 2 năm tù treo. Đàn cơ 1/7 ĐĐ14, Đức Trần Tổng Lý dạy Ngài cùng với Hội Thánh lo soạn thảo kinh gia lễ Thường Hành và Đạo Lễ. Đến tháng 2 canh Thìn (1940) Ngài tháp tùng phái đoàn Hội Thánh Trung Kỳ do Ngài Lê Trí Hiển lãnh đạo vào nam tham dự Đại Hội Long Vân thứ 12 tại Thánh Tịnh Minh Kiến Đài. Đến năm 1941, sau đám tang của thân mẫu Ngài, Ngài bị bắt cùng với các Hướng Đạo và giam tại nhà giam Quảng <?:NAMESPACE PREFIX = ST1 /><?XML:NAMESPACE PREFIX = ST1 /><ST1:COUNTRY-REGIoN w:st="on"><ST1:pLACE w:st="on">Nam</ST1:pLACE></ST1:COUNTRY-REGIoN> đến 1943. Trong thời gian này Ngài vẫn để tâm biên soạn những tài liệu Giảng Đạo cho tín đồ rất súc tích gởi về cho Hội Thánh.
<O:p></O:p>
Ngài lập đại nguyện xin đi và thiết cơ đàn cầu nguyện. Tháp tùng Ngài có 3 Hướng đạo là Ngài Nguyễn Đán, cô Trần Thục Cơ và Nguyễn Trinh Cán, và 2 đạo hữu Nuyễn Văn Minh và Nguyễn Thị Loan (chị ruột của luật sư Nguyễn Quốc Tín) dạy Ngài như sau:

"Trác phận sự Thầy đà đặt để
Chí ưu thời mẫn thế Thầy khen
Chừng nào gà gáy lầm Trăng
Thì con sẽ biết con rằng là sao???
Lo phận sự Thầy trao một mối
Chớ có chi mà nỗi là chi
Đã rằng cách vật trí tri
Chấp trung quán nhứt còn kỳ đăng khoa"

Tháng 6-1931 Ngài ra huế thăm chơi, nghe tiếng thầy Trí Độ chúa Báo Quốc là người quảng bác, hiếu khách, nhân tiện ghé thăm vãn cảnh và đàm đạo. Nhưng vừ ra đến nơi thì Trời đã tối và chùa đóng cổng. Ngài gọi cổng, có một chú tiểu ra thấy Ngài ăn mặt quá bình dân (tính Ngài vốn ăn mặt xuề xòa, giảng tiện) tưởng Ngài là kẻ hành khách nên làm thinh quay vào. Ngài gọi lần nữa và tỏ ý muốn xin gặp sự trụ trì. Chú tiểu vào trong báo và Thầy Trí Độ ra. Sau khi nghe giọng nói biết là người xứ Quảng lại ăn nói nho nhã thuần hậu nền Thầy thử tài :

Té ra là người ở đất “Ngũ Phụng Tề Phi”. Thế thì hãy cho bần tăng nghe một bài thơ tức cảnh thì quý hóa quá!
<O:p></O:p>
Ngài không chút do dự, đáp liền
<O:p></O:p>
“Tớ từ trong Quảng mới ra chừ
Gió bụi đường xa lún mệt đừ
Tế độ nhờ ơn qua buổi tối
Sáng ngày tớ sẽ tự như như”

Nghe xong bài thơ, thầy Trí Độ vừa ngạc nhiên vừ cảm phục một con người giản gị, đức độ, lại hoạt bát tài tình với lời thơ thật chân thực. Thầy liền mở cửa niềm nở đón tiếp Ngài vào thư phòng đàm đạo 1 đêm.

<O:p>(Bài viết đã được sửa một số lỗi bởi Đại Đồng. Thân mến!)</O:p>
 
Sửa lần cuối:

vietanh

New member
                        GƯƠNG HƯỚNG ĐẠO
<br />
<br />Kính thưa toàn thể bổn Đạo Xã Đạo Từ Hòa.
<br />
<br />
<br />Cứ mỗi năm Thu về là bổn Đạo Cao Đài lại dâng lễ kỷ niệm
<br />ngày Thánh Tử Đạo. Ngày mồng 10 tháng 7 hàng năm, cái
<br />ngày mà mỗi bổn Đạo chúng ta không thể quên.
<br />Cách đây đã hơn 30 năm giáo hội chúng ta trãi qua nhiều
<br />giai đoạn thăng trầm của cơ Đạo.
<br />Trong mỗi người tín đồ với mỗi tấm lòng thành kính của mình
<br />để tưởng nhớ đến Chư Thánh Tông Đồ Tử Đạo. Nhưng
<br />mấy ai biết rằng những tấm gương đó đã hy sinh vì mục
<br />đích gì?
<br />Những con người chỉ biết thương Thầy, hết lòng vì Đạo.
<br />Mỗi khi đi đến dự lễ ghi ơn các Thánh Tử Đạo tại Linh Tháp
<br />hay không đến chúng ta cũng không quên cúi đầu kính
<br />trọng, vì nghĩ rằng trong mỗi chúng ta không thể sánh
<br />bằng.
<br />
<br />Lẽ thường ai cũng tham sống sợ chết, thế mà đằng nầy
<br />những Chức sắc, Đạo hữu vào năm 1945 đứng trước
<br />những cái chết ghê hồn trước mặt mình, họ đối mặt với nó
<br />và họ chịu nằm xuống. Lúc đó sức mạnh nào để những con
<br />người đó không biết sợ hãi? Đó là Đức Tin tuyệt đối . Ôi!
<br />Đức tin các Thánh Tử Đạo thật vô cùng quí trọng. Trong
<br />đó có vị Chức sắc mà trong tâm khảm chúng ta không bao
<br />giờ quên mỗi khi chúng ta nói đến Phước Thiện, là nói đến
<br />một vị Bồ Tát . Ngài là ai?
<br />
<br />Kính thưa đó là Đức Liễu Tâm Chơn Nhơn, mà chúng ta
<br />thường gọi là Ngài Huỳnh Ngọc Trác. Để biết rõ hơn về tấm
<br />gương của bậc Hướng Đạo. Bồ Tát.
<br />
<br />Lượt sơ qua tiểu sử của Ngài: Ngài Huỳnh Ngọc Trác tên
<br />thật là Huỳnh Quang Tứ biệt danh Lan Tuyền. Ngài sinh
<br />năm Mậu Tuất 1898 tại làng An Tráng phủ Thăng Bình tỉnh
<br />Quảng Nam là con trưởng của Cụ Ông Huỳnh Quang Ý và
<br />Cụ Bà Phan Tịnh Niệm cháu 17 đời quan Thương Thơ bộ Lễ
<br />nhà Tống. Vốn gia tộc của Ngài gốc bên Tàu, Tiền nhân
<br />dòng họ của Ngài qua Việt Nam đã lâu đời . Ngài thiên bẩm
<br />thông minh, tình thâm Tam giáo và quảng bác tư tưởng
<br />triết lý Tây phương. Lúc 20 tuổi Ngài theo tu Tam giáo Minh
<br />sư. Năm 1931-1932 bị Pháp cầm tù. Năm 1936 quy nguyên
<br />Cao Đài giáo, năm 1938 giữ chức Hòa Viện Trưởng kiêm
<br />Học Viện Trưởng trong Quyền Hội Thánh Trung Kỳ. Các
<br />năm 1941-1945 bị tù tại Quảng Nam và an trí tại Trà kê vì
<br />Đạo. Nhật đảo chính Pháp. Ngày 1-5-1945 vào Quảng Ngãi
<br />cùng đi với Ngài là một số chức sắc Hội Thánh , và ngày 7-
<br />7-1945 Ngài bị bắt cùng số đạo tâm tháp tùng, Ngài bị đem
<br />ra xử bắn cùng với số Hướng đạo và đạo hữu cùng tháp
<br />tùng trong lúc hành đạo tại Nghĩa hành. Năm đó Ngài 48
<br />tuổi.
<br />
<br />Xét công danh đạo nghiệp Đức Chí Tôn đã Ân Phong Ngài
<br />Huỳnh Ngọc Trác thiên vị là Liễu Ngộ Không Tâm Chế Tai
<br />Giải Ách Bồ Tát thường gọi là Liễu Tâm Chơn Nhơn và hộ trì
<br />cơ quan Phước Thiện.
<br />
<br />Đức tính của Ngài thật là Bồ Tát . khi còn sống và làm việc
<br />đối với Đạo cũng như Đời Ngài đã Tu chứng tâm vô sự, sự
<br />vô tâm, có rất nhiều câu chuyện về đời thường khi Ngài
<br />trên đường Hành Đạo Ngài tỏ rỏ sự vô sự vô tâm đó….kể
<br />chuyện:… trên chuyến tàu lữa…
<br />
<br />Có một câu nói của vị Hướng Đạo lớp đàn em của Ngai đã
<br />nói:
<br />“Chết vì Đạo không khó. Khó là chết vì Đạo mà không oán
<br />Trời hờn Người .
<br />Vậy lúc nào cần hy sinh như người xưa, người tin đạo coi
<br />như được dự phần vinh dự, lấy máu mình rửa sạch tội mình
<br />và tội chung thiên hạ.”                                                                                                                                                                                         
<br />TSQ.HồTân Sinh
<br />
<br />Vậy chúng ta tưởng nhớ đến các Chư Thánh Tông Đồ ngày
<br />hôm nay còn có ý nghĩa cho Phước Thiện, chung lòng cầu
<br />nguyện cho Phước Thiện Thành công.
<br />
<br />Ngài Đức Liễu Tâm Chơn Nhơn khi còn tại thế Ngài đã là bậc
<br />Hướng Đạo đáng kính của chúng ta làm được, luôn là tấm
<br />gương sáng cho toàn thể tín đồ Cao Đài giáo phải noi theo.
<br />Và bây giờ khi Ngài được Thầy gọi về, về ngôi xưa vị củ
<br />nhưng Ngài cũng không quên cho cơ nghiệp Phước Thiện
<br />hôm nay. Mà Thầy đã giao trách nhiệm hộ trì Phước Thiện
<br />
<br />Ngài giáng dạy chúng ta qua những lời Thánh giáo thật gần
<br />gủi đắm tình bằng hữu, tỏ rõ người Truyền giáo Hướng đạo
<br />luôn đi vào tâm khảm của mỗi người bằng sự thương yêu,
<br />đó là tỏ rõ cái Phước Thiện ở mỗi chúng ta.
<br />
<br />Ngài dạy:
<br />“ Phước Thiện ta ngày nay phải bước lên một bước xây
<br />dựng con người Phước Thiện, rồi đến gia đình, đến Xã Đạo,
<br />đến Thánh Thất, đến Hội Thánh” (TTTHtr139q3).
<br />
<br />Vậy cái gương Truyền giáo là chổ con người Phước thiện
<br />phải gương mẫu mọi điều, làm cho Đạo hữu mến phục và
<br />làm theo, như Ngài đã dạy rằng; “ Người Phước Thiện là
<br />người xóa bỏ danh lợi, tinh thần trên đường độ đời cứu
<br />chúng, người được kết liền cùng khối thương yêu, hiện
<br />thân của Thánh Tiên tại thế. Nếu người Phước Thiện mà
<br />còn chưởng vào mình những bản ngã tư tâm, lợi danh
<br />cương tỏa, thì chưa được.”(TTTHtr140,141q3).
<br />
<br />Qua đoạn Thánh Giáo trên Ngài đã hiện thân Thánh Tiên
<br />khi còn tại thế rồi đó. Cái gương quả cảm ấy khi đã chịu
<br />hình phạt tù đầy, và rồi bị giết mà không lời oán Trời hờn
<br />người mà còn tỏ rõ sự thương yêu người, thương Thầy
<br />mến Đạo ;
<br />
<br />Ngài dạy:
<br />“ Sứ vụ ta nặng nề, bổn phận ta trọng đại, phải cố gắng và
<br />cố gắng nhiều để ngày mai thành được đóa hoa tinh khiết,
<br />hoa có hương có sắc, người có đức có tài, hoa có nhụy có
<br />đài, người có tâm có thể, hoa vô tư vô lự theo chiều gió
<br />ngã mình, người không lợi không danh thung dung Đạo mầu
<br />nhập diệu.”(TTTHtr141q3)
<br />
<br />Tệ đệ xin mượn câu dặn dò cuối cùng mà Ngài đã dạy
<br />chúng ta để kết thúc bài này.
<br />“Chư Hiền cố gắng theo dõi bài này”.(bài Thánh Giáo ý
<br />nghĩa Phước Thiện)
<br />
<br />                                          Ngày mồng 8 tháng 10 năm Kỷ
<br />Sửu
<br />                                                                                                       
<br />Việt Hiền
<br />
 

Hao Quang

New member
<P><FONT size=3> một mẩu chuyện về Ngài Huỳnh: <strong>gia đình lễ giáo và hiếu đạo</strong></FONT></P>
<P><FONT size=3>"ngày 14/06 Mậu Dần (1938), đoàn Truyền Giáo do Ngài Huỳnh hướng dẫn lân An Tráng làm lễ Quy Hiệp cho bổn đạo chùa Tam Giáo. Phái đoàn ra đi từ Thánh Thất Trung Thành hôm 20/06, nhưng bị mưa lụt và phải đi bộ khó khăn, ghé qua nhiều nơi: Đại Bường, Trung Quang, Trung Lộc và một số nhà wen bổn Đạo nên đến trưa 23/06 mới về đến nhà Ngài Huỳnh ở An Tráng (gần bên chùa Tam GIáo) về đến nhà như thường lệ, chào hỏi cụ Bà thân sinh Ngài, chào cô Giáo Hai (vợ Ngài) cáo yết Trời Phật xong, giải khát rồi nghỉ nghơi</FONT></P>
<P><FONT size=3>Khách vừa đặt lưng xuống chiếu là nghe tiếng dõng dạc của cụ bà:</FONT></P>
<P><FONT size=3>- Thầy Hai đâu, mời ra cho tôi hỏi chút việc??</FONT></P>
<P><FONT size=3>thế là Ngài Huỳnh vội vàng khoác áo dài chạy đến bên cụ Bà vòng tay thi lễ:</FONT></P>
<P><FONT size=3>- Thưa Mẹ! con đây Mẹ dạy việ gì?</FONT></P>
<P><FONT size=3>Cụ Bà chậm rãi hỏi :</FONT></P>
<P><FONT size=3>- Thầy có biết mấy ngày qua là ngày gì không mà đến hôm nay Thầy mới về??</FONT></P>
<P><FONT size=3>Ngài Huỳnh có vẻ biến sắc ngập ngừng thưa :</FONT></P>
<P><FONT size=3>- Thưa mẹ, con biết ngày cúng giỗ của Thân Phụ con, trong lúc đi hành đạo với quý Thầy, chẳng may gặp mưa lụt, con cố về mà không kịp, ngày hôm kia ở Thánh Thất Trung Quang (Trung Lộc), con có xin thiết lễ tưởng niệm cầu siêu cho thân phụ con rồi, có quý Thầy cúng, hôm nay mới về nhà, con chưa kịp thưa với Mẹ</FONT></P>
<P><FONT size=3>CỤ Bà nói tiếp:</FONT></P>
<P><FONT size=3>- Mấy ngày qua Tôi tựa cửa trông Thầy, càng trông càng biệt tăm, không biết Thầy đi tu cái Đạo gì mà ngày cúng giỗ Cha cũng không về. Rồi Thầy giảng giải với thiên hạ ra làm sao???</FONT></P>
<P><FONT size=3>Ngài Huỳnh có vẻ bối rối, cảm xúc, phía sau có cô Giáo Hai cũng đứng vòng tay yên lặng hầu nghe. Ngài Giáo Sư Nguyễn Quang Châu phải vội vàng khăn áo chỉnh tề nghiêm nghị lễ phép trình bày :</FONT></P>
<P><FONT size=3>- Thưa cụ Bà, Bà dạy chí phải, nhưng ở đây chúng tôi chứng kiến nỗi ưu tư tha thiết của Thầy Giáo Hai đây lo không kịp ngày cúng giỗ cụ Ông thân sinh, Thầy đã thiết lễ tưởng niệm như đã thưa, có Thầy Cửu Sáu, chúng tôi và bổn Đạo Trung Lộc dâng lễ cầu siêu cho cụ ông. Trường hợp đặc biệt này không làm sao hơn được, xin cụ Bà lượng thứ cho. Chúng tôi nghĩ Đạo Lý Thánh Hiềng đành rằng chấp kinh nhưng cũng có lúc tùng quyền. Ngày xưa Võ Vương cha chết chưa an táng, vận áo tang mang quân đi đánh Trụ Vương...như thế theo Đạo Thánh Hiền thì phạm tội bất hiếu lớn lao nhưng người đời lại hết lời ca tụng Ngài Võ Vương là bậc Thánh Chúa chí hiếu. Nên đạo lý "Kinh Quyền" là ở chỗ đó, xin cụ bà xét lại!</FONT></P>
<P><FONT size=3>Cụ Bà đứng dậy chắp tay đáp lễ :</FONT></P>
<P><FONT size=3>- Xin lỗi Qúy Thầy, vô tình tôi đã thất lễ với quý Thầy. Điều tôi nói hôm nay là cốt ý nhắc nhở cho thầy Hai tôi đây đừng vì cái Đạo rộng lớn cao xa mà quên đi những điều thấy là nhỏ nhặt mà không lưu tâm đến. Chính cái nhỏ nhặt đó là nền tảng của Đạo làm người. Xin quý thầy miễn chấp cho chỗ thất lễ của tôi. </FONT></P>
<P><FONT size=3>Rồi cụ quay lại nói với thầy và cô giáo Hai :</FONT></P>
<P><FONT size=3>- Nói để cho thầy biết vậy. Thôi thầy vào nghỉ để cho quý thầy nghỉ.</FONT></P>
<P><FONT size=3>- con xin ghi nhớ lời dạy bảo của Mẹ</FONT></P>
<P><FONT size=3>rồi xá Cụ Bà hai xá và cùng cô giáo Hai lui vào trong! </FONT></P>
<P><FONT size=3>thật là một gia đình lễ giáo và hiếu đạo hiếm có!"</FONT></P>
<P><FONT size=3>nhân <strong>Mùa Vu Lan báo hiếu</strong> Q chúc tất cả HTĐM vui vầy bên người thân một cách...trọn vẹn nhất! </FONT></P>
<P><FONT size=3></FONT> </P> 
 

newdigimon

New member
<P>Thật, tiểu đệ không biết nói gì hơn <IMG src="smileys/smiley1.gif" border="0"></P>
<P>Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát</P>
 

dotieucuc

New member
Xin bổ sung thêm cho bài viết của Hào Quang:


Hợp đồng cùng anh Lê Đức và anh chị em bổn đạo tại Quảng Ngãi đã tổ chức được các lễ Đại Đại Phục Hưng tại Mỹ Long, Mỹ Sơn, Sông Vệ,...Ngài cùng anh chị em lên Hành Thiện thuộc huyện Nghĩa Hành để tổ chức đại lễ tại đây thì gặp ngay biến cố,...(được hiệu chỉnh bởi QTV)... tháng 8...Ngày 7/7 Ất Dậu, Ngài bị bắt cùng toàn đạo. Đến ngày 10 tháng 7 Ất Dậu thì bị đem ra bắn cùng một hang đạo hữu nối tiếp nhau ngã gục trước viên đạn vô nhân trong đó có anh Minh. Riêng chị Lan, chị Cung thì bị bọn (sát thủ)(hiệu chính bởi QTV)...dỗ dành làm vợ cho họ thì khỏi chết, nhưng các chị nhứt quyết không chịu nên cùng chung số phận với các đạo hữu địa phương... (theo ông Trương Sư Xuyên – chức sắc Hội Thánh Truyền Giáo ghi nhận)<!--?:NAMESPACE PREFIX = O /--><!--?:NAMESPACE PREFIX = O /--><!--?:NAMESPACE PREFIX = O /--><!--?:NAMESPACE PREFIX = O /--><o:p></o:p>

Còn theo ông giáo hữu Lê Quang Sách lúc ấy còn là thanh niên cũng bị bắt giam tại Nghĩa Hành đã được mục kích được pháp nạn này kể lại:<o:p></o:p>

“Trước khi thọ nạn, Ngài Huỳnh vẫn bình tình như thường, Ngài có đề nghị với cán bộ cho nói vài câu để giải thích việc làm của Ngài nhưng họ không cho. Cuối cùng, Ngài bảo anh chị em đồng đạo hãy hướng về phía Bắc và niệm danh hiệu Chí Tôn mãi cho đến khi không còn nghe biết gì nữa. Ngài niệm to hơn hết át cả tiếng mọi người và một loạt đạn xuyên qua, hàng người ngã gục trước tiếng cười ngạo nghễ của quỷ vương khi đắc thế.”

(theo Nhân Vật Cao Đài Giáo – quyển 1 – Đồng Tân - 2008)<o:p></o:p>
 

nguoiviethcm

New member
kinh huynh Hao Quang

chân thành cảm tả huynh đã cung cấp tiểu sử đức Liễu Tâm Chơn Nhơn. cảm tạ
 

Hao Quang

New member
Kính Huynh NguoiVietHCM! chúng ta vào đây trao đổi học hỏi lẫn nhau để Phụng Sự Đạo là vui rồi! có chi đâu mà cảm ơn

<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if !mso]><object classid="clsid:38481807-CA0E-42D2-BF39-B33AF135CC4D" id=ieooui></object> <style> st1\:*{behavior:url(#ieooui) } </style> <![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> "Với hoài bảo chấn hưng Tôn Gia1o phát huy Đạo Đức, Ngài Huỳnh Ngọc Trác mấy lần lặn lội ra Huế gặp cụ Lê Đình Thám và các vị Đại Sư Hội Phật Học tại Huế để thảo luận tinh thần chấn Hưng Phật Gia1o đồng thời viếng thăm cụ Huỳnh Thúc Kháng, cụ Phan Bội Châu là những nhà chí sĩ cũng là nhà nho danh tiếng, để tìm hiểu về Đạo Đức triết lý Khổng Mạnh rất được các cụ mến phục tâm đắc. Khi tiễn đưa Ngài Huỳnh Ngọc Trác ra về cụ Phan Sào Nam cảm động đọc câu cadao ngụ ý đau xót tình đời:
Lá đưa cây cải về trời​
Rau răm ở lại chịu lời đắng cay​
Ngài Huỳnh Ngọc Trác liền ứng khẩu đáp lại:
Trách lòng con cá lia thia​
Vực sâu không ở,ở đìa nỗi chi​
Để tỏ niềm thương cảm và ngụ ý mong muốn cụ Sào Nam đi theo con đường đạo lý cứu độ nhơn sanh

Nhân dịp này Ngài Huỳnh Ngọc Trác ngõ ý xin gởi vài thanh niêm tâm phúc ra hầu và giúp việc biên chép các cụ đang soạn, Cụ Sào Nam vui vẻ chấp nhận.Thế là Ngài Trần Nguyên Chí 20 tuổi và em ruột Trần Nguyên Khởi được Hai Ngài TRần – Huỳnh gởi theo học bên cạnh cụ Sào Nam vào các năm 1933,sau them Phan Quang Phục con Ngài Phan Sĩ Nhiếp…............."


HQ có tiểu sử các Ngài:
Ngô Minh Chiêu
Trần Đạo Quang
Cao Triều Phát
Lê Kim Tỵ
Trần Văn Quế
Đàm Thi
CaO Hữu Chí
Một gia đình hy sinh vì Đạo
Trần Công Ban
Lương Vĩnh Thuật
Trần Quang Châu
Nguyễn Quang Châu
Nguyễn Đán
Trần Luyện
Nguyễn Hồng Phong
Lê Trí Hiễn
Trần Nguyền CHất
Huỳnh Ngọc Trác
Phan Thiện Trì
Trần Nguyên CHí
Mai Diệu
Mai Dinh
Trương Sư Xuyên
Trần Hoanh
Hồ Tân Sinh
Huỳnh Thanh Bảo
Hồ Thanh Đạm
Nguyễn Trinh Cán
… nếu HTĐM nào cần Tiểu sử của Ngài Nào thì HQ rảnh sẽ gõ và cung cấp lên Diễn Đàn Tuổi trẻ Đại Đạo còn nếu cần hết thì gởi địa chỉ HQ pho và gởi sách qua cho! nếu HTĐM thực sự cần
chúc HTĐM ngủ ngon
 

MinhKy

New member
Hào Quang có thể vui lòng đăng giùm tiểu sử của 2 người, ông Trần Hoanh và cụ Phan Thiện Trì. Cám ơn.
 

truongtam

Administrator
Ôi, Hào Quang cũng sưu tầm nhiều sách quá.
Đệ cần tiểu sử và gương hướng đạo của Đức Bảo Thọ Thánh Nương được hông. Vì Má em học trong Thánh Thất đang cần.
Cám ơn huynh trước nhé.
Mấy cuốn sách hay lắm, nhưng đệ chỉ đọc tham khảo thôi, (ý là đọc rồi để trong đầu, khi nào cần sẽ lục lại dùng, hi hi).
Đệ cũng sẽ copy lại cho huynh vài cuốn sách của đệ.
Không biết khi nào rảnh gặp huynh được.
 

Hao Quang

New member
<OBJECT id=ieooui classid=clsid:38481807-CA0E-42D2-BF39-B33AF135CC4D></OBJECT><STYLE> st1\:*{behavior:url(#ieooui) } </STYLE>Gởi Huynh Minh Kỳ HQ gởi Huynh Tiểu sử của Ngài Phan Thiện Trì!
còn tiểu sử của Ngài Trần Hoanh hẹn huynh dịp khác HQ sẽ gởi cho Huynh! Mong Huynh Thông cảm cho HQ nha
PHAN THIỆN TRÌ (GIÁO SƯ HÀM PHONG)
(1887-1972)​
Ngài Phan Thiện Trì tên thật là Phan Sĩ Nhiếp thường gọi là Thầy Gia1o Khanh, sinh ngày 28-3 Đinh Hợi 1887 tại Làng Hiền Lộc, Tổng Việt An, Huyện Thăng Bình, Tỉnh Quảng Nam.
Thân phụ là cụ Tú Phan Sĩ Trâm xuất thân học thức nhưng lại vui sống cảnh ruộng vườn. Cụ tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp làm đến chức Ban Biện Quân Sự, tính tình cương trực được xóm làng kính nể. Thân Mẫu là cụ Bà Hồng Thị Thu người phụ nữ có học thức gốc Minh Hương đoan trang hiền thục.

Ngài Phan Thiện Trì có tất cả bảy an hem: hai trai, bốn gái. Ngài là con thứ tư trong gia đình danh gia vọng tộc trong làng, do đó Ngài được hấp thụ lễ giáo Á Đông ngay từ thuở bé, tư chất thông minh, tính tình điềm đạm, hòa nhã, nhưng chí khí lại hiên ngang cương trực.

Lên chin tuổi Ngài đã xa gia đình, theo học chữ Nho với người Chú ruột là cụ Phan Sĩ Duân ở làng La Nga được 3 năm, đến học với nhà Nho Trần Can ở Quế Sơn được một năm, lại đến học với cụ Hồ Truy cũng ổ Quế Sơn được hai năm, sang học với cụ Tú Hồ Mại ở Phú Cốc hai năm, cuối cùng đến học với cụ Gia1o Thọ Nguyễn Dinh ở trường lớn phủ Thăng Bình được ba năm, trong mười năm đèn sách, dù học Thầy nào trường nào Ngài cũng thuộc hàng học trò suất sắc.

Năm Ât Tỵ 1905 năm 19 tuổi, song thân lo cưới vợi cho Ngài là bà Nguyễn Thị Côn cùng tuổi Ngài, là con thứ 8 trong một gia đình trung nông.

Năm sau Ngài ra Kinh thi Hương bị hỏng trở về quyết chí dồi mài kinh sử chờ khoa sau. Nhưng năm sau gặp gia biến, vợ Ngài bà Nguyễn Thị Côn từ trần sau khi sinh hạ người con trai đầu long được bảy ngày tên là Phan Khanh, người con này được Ngài rèn đúc với cảnh gà trống nuôi con.

Ông Phan Khanh thánh danh Phan Thiện Hòa tính tình thẳng thắn vui vẻ, sau theo học trường dòng ở Huế thi đậu bằng Diplome, có gia đình sinh được ba gái và một trai, con cháu hiện sống ở Suối Nghệ và Sài Gòn.
Năm Mậu Thân 1908 Thân Phụ Ngài là Cụ Tú Phân Sĩ Trâm mất, Ngài đành bỏ học lo chăm sóc việc nhà và học them Quốc Ngữ với cụ Nguyễn Mậu Hoàng. Trước khi mất cụ ông lo tục huyền cho Ngài với Bà Lê Thị Tánh sau sinh được hai gái, hai trai.
- Phan Thị Ngự chết 1956, còn hai người con gái hiện ở Cam Ranh.
- Phan Thị Ấm sinh Nhâm Tý 1912 chết 1935 con là Hà Minh Đức hiện sống ở Suối Ngệ Bà Rịa Vũng Tàu
- Người con thứ năm là Phan Đề Pháp Danh Phan Thanh Tảo sinh Ât Mẹo 1915 tư chất thông minh, theo học chữ Nho với cụ Thiều chửu ở Hà Nội chết 1965, con là Phan Văn Chuân, Phan Thị Bích, Phan Tiến Dũng, Phan Quang Trực, Phan thị Ngọc Anh hiện sống ở Suối Ngệ và Sài Gòn.
- Người con thứ sáu là Phan Câu ( Phan Quang Phục) sinh Mậu Ngọ 1918. Tính tình thuần hậu, thông minh, theo học Cụ Sào Nam ở Huế và cụ Thiều Chửu ở Hà Nội. Khi Quy hiệp Đạo Cao Đài làm Chánh Từ Hành Thánh Thất Trung An, độc thân, Quy liễu 1938 lúc 22 tuổi.

Năm Kỷ Dậu 1909 Ngài Phan Thiện Trì lại ra kinh thi lần nữa nhưng lại hỏng, từ đó Ngài xếp bút nghiêng không màng việc thi cử,lo cai quảng gia đình chuyên về nông nghiệp vui thú điền viên.

Ngày 26-5 Tân Hợi 1911 thân mẫu Ngài Từ Trần, nỗi buồn thương chưa nguôi thì 2 năm sau 1913 xảy ra hỏa hoạn, bao nhiêu tài sản phút chốc tan thành mây khói. Ngài lại lo gầy dựng cơ nghiệp mới, được năm năm thì người vợ thứ hai là bà Lê Thị Tánh từ trần 1918 khi người con thứ sáu là Phan Câu chào đời được 04 tháng. Ngài phải chịu đựng cảnh đau long.
Càng trông càng thảm càng sầu
Phần lo gia thất phần rầu năm canh​
Ngài vẫn bình tỉnh vượt những đau buồn, gian lao lo gầy dựng cơ nghiệp, tạo lập ngôi Từ Đường Lợp Ngói an vị vào năm Kỷ Mùi 1919.

Trước đó năm Bính Thìn 1916 Ngài Phan Thiện Trì có hiến cho Làng giống ruộng để làm Công Bản và cùng anh vợ là ông Nguyễn Thông xây dựng một ngôi trường Làng để dạy học. Vì vậy năm Khải Định thứ hai 1917 Ngài được thưởng làm Cửu Phẩm Văn Giai, được dân làng nể trọng và gọi Ngài là Cửu Khanh.

Năm canh Thân 1920 năm 34 tuổi, Ngài tục huyền lần nữ với bá Nguyễn Thị Húy ( đã có con góa bụa) bà sinh được hai trai, 4 gái
- Phan Thị Hòe sinh Nhâm Tuất 1922 tu giải thoát Đạo Cao Đài. Được ơn trên phong Gia1o Hữu, hiện đảm nhận chức vụ Chưởng Quản Cơ Quan Nữ Phái Hội Thánh Truyền Gia1o Cao Đài tại Đà Nẳng.
- Phan Chí Sĩ sinh năm Gia1p Tý 1924 hiện sống với vợ con tại Sài Gòn
- Phan Thiện Nha sinh Bính Dần 1926 hiện đang sống ở Bà Rịa
- Phan Thị Thảo Lang sinh Mậu Thìn 1928 độc thân chết 1954
- Phan Thị Huệ sinh Qúy Dậu 1933 hiện sống với con ở Vũng Tàu
- Phan thị Cam sinh ẤT Hợi 1935 chết 1992, chồng và con hiện sống ở ÚC

Thòi gian này là lúc gia đình ổn định Ngài chán nản việc đời muốn tìm về nẻo Đạo. Năm 1928 người con thứ sáu của Ngài là Phan Câu thọ giáo Minh Sư với Đạo Sư Võ Xương Kỉnh, hai năm sau Ngài và hai người con trai lớn là Phan Khanh và Phan Đề nhập môn Đạo Minh Sư với Đạo Sư Nguyễn Vĩnh Từ có hai ngài Trần Nguyên Chất, Huỳnh Ngọc Trác tiến dẫn, thọ giớn trường trai với Thánh Danh Phan Thiện Trì.

Năm 1936 Ngài kiến thiết lại ngôi nhà ngói rộng 10 gian, hai năm sau Ngài và tất cả con cháu Quy y Đạo Cao Đài.Từ đó cuộc Đời Ngài gắn liền với nền Đạo mới cùng nhiều thử thách tù tội, gian nguy. Gần 8 năm theo Đạo Minh Sư, cả gia đình ngài hết lòng mộ Đạo nhờ ảnh hưởng phong trào “khai trí trị sinh” của cụ Phan Chu Trinh và chủ trương đem Đạo vào Đời của hai ngài Trần – Huỳnh. Từ đó Ngài hợp tác với hai Ngài Trần –Huỳnh rất tâm Đắc, Ngài khuyến khích con cháu và bạn bè theo phong trào học mới.

Ngày 24-6 Mậu Dần Đại Đạo 13 ( thứ năm này 21-7-1938) Ngài Phan Thiện Trì cùng tất cả con cháu làm lể quy hiệp nhập môn Đạo Cao Đài tại Chùa Tam Gia1o An Tráng cùng bổn Đạo Minh Sư. Sau ngày quy hiệp Ngài tích cực tham gia hành Đạo,dù bị tù đày vẫn vui vẻ chấp nhận. Ngài được cử làm Thủ Bổn Thánh Thất Trung An thời kỳ Ngài Trịnh Trung Tín làm lễ sanh Đầu họ.

Ngày mùng 8 – 1 Kỹ Mão ( chủ nhật ngày 26-2-2939) tiểu hội Vạn linh tổ chức tại Thánh Thất Trung An, Ngài làm trưởng ban tiếp tân nên bị bắt cùng quý hướng Đạo và bị kết án 1 năm tù treo.

Ngàu 30-9-1939 Ngài vận động tu bổ một ngôi Chùa cũ trong Làng, thiết trí thờ Thầy để làm cơ sở truyền Đạo và dạy Đạo. Sau đêm thượng tượng AN Vị Ngài bị kết án 2 năm tù treo vì tội lạm thủ chức của Làng.

Năm 1940 Ngài bị bắt giam tại nhà lao của Tỉnh Quản Nam ở Vĩnh Điện. Đến năm 1941 các hướng Đạo bị bắt trong đám tang thân Mẫu Ngài Huỳnh Ngọc Trác cũng bị đem giam tại đây.

Sau ngày mãn tù năm 1943 Ngài tiếp tục tu học hành Đạo và được cử làm cố vấn cho Họ Đạo Trung An. Tiếp theo sau những biến cố dồn dập, cơ Đạo chinh nghiêng Ngài đi lại nhắt nhở bổn Đạo giữ vững niềm tin thờ Thầy giữ Đạo.

Cuối năm Bính Tuất 1946 chiến tranh Việt –Pháp bùng nổ. Thành phố Đà Nẳng bị Pháp chiếm, Cơ Quan Truyền Gia1o Trung Bắc Bộ phải dời lên sở Nông Phước Hội, rồi bị máy bay Pháp ném bom phải dời về Thánh Thất Trung An Làng An Tráng 1947.

Chiến tranh ngày càng khốc liệt không liên lạc được với các nơi,vâng thánh lệnh quý Chức Sắc hướng Đạo Miền Trung tổ chức Đại Hội Đại Biểu bốn tỉnh miền Trung : Nam, Nghĩa, Bình, Phú tại Thánh Thất Trung An thành lập Cơ Quan Truyền Gia1o Trung Bộ vào ngày vía Đức Chí Tôn mùng 9-1 Mậu Tý ( thứ 4 18-2-1948), chấn chỉnh và bổ sung người vào ban Cửu Viện

Cuộc chiến lan rộng, cuối năm 1948 Hội Thánh phải dời về đặt tại nhà ông Phan Khanh Pháp Danh Phanh Thiện Hóa là con trai đầu của Ngài ở Hiền Lộc xã Thăng Lãnh,Quận Thăng Bình Quảng Nam. Tại đây Ngài được dịp luận bàn đạo lý và lo tiếp tăng độ chúng, vì Hiền Lộc được xem là Trung gian với các Thánh Sở Hiện thời.

Đầu năm Kỷ Sửu 1949 các chức sắc hướng Đạo Miền Trung đều bị bắt giam, tiếp đến phiên tòa quân sự tại quân khu 5 Bồng Sơn các chức sắc và bổn Đạo bị tù đày khắp nơi.Ngài ở nhà lo cầu nguyện và nhắt nhở bỏn Đạo lo Thờ Thầy giữ Đạo. Năm 1952 một số chức sắc ra tù hợp tác cùng Ngài tiếp tục xây dựng dựng cơ Đạo duy trì tinh thần tín ngưỡng và nề nếp sinh hoạt bổn Đạo.

Đàn cơ tại Thánh Thất Từ Vân ( Quảng Nam) ngày mùng 9-2 Nhâm Thìn ( thứ 3 ngày 4-3-1952) Đức Chí Tôn giáng cơ ban lệnh cho Ngài Phan Thiện Trì chứng đàn lễ thọ phong của chư chức sắc Cơ Quan Truyền Gia1o Trung Bộ. Đến ngày 15-2 nhâm thin Đại Đạo 37 ( thứ hai ngày 10-3-1952) đàn cơ tại Thánh Thất Thái Hòa, Đức Chí Tôn giáng cơ dạy Đạo và phong Ngài Phan Thiện Trì phẩm vị Quyền Hiệp Lý đại diện Cửu Trùng Đài thay cho Ngài Hiệp Lý Trần Nguyên CHất liễu Đạo ngày 30-12 Kỷ Sửu,Ngài Cao Hữu Chí đại diện Hiệp Thiên Đài trong kỳ Chỉnh Cơ Lập Pháp.
Trích đàn cơ phong quyến Hiệp Lý:
“Thầy giao cho Trì thay quyền Hiệp Lý”

Thi
Ngọc ẩn non kỳ ngọc vẫn cao
Mặc ai lơ lững trách ai nào
Hành trì Pháp Đạo tâm thanh tịnh
………………………………nào?​

Bài
“Trì tâm đợi cái ngày thành Đạo
Trãi bao phen nồng não thân gia
Làm trai đứng giữa sơn hà
Nước non nặng nợ cỏ hoa nặng tình
Gánh Đạo Trời bên mình hằng hoại
Bước ghập ghình them bả lợi danh
Muốn cho cơ nghiệp Châu Thành
Sá Hồ Dủ Lý mà anh hùng từ”
Ngài đêm hết tâm chí hành Đạo lập công và điều hành Hội Thánh trong thời gian này.
Nguyên đán Qúy Tỵ Đại Đạo 28 ( thứ bảy 14-2-1953) Đức Chí Tôn Gia1ng cơ tại Thánh Thất Trung An, Ân phong Ngài Phan Thiện Trì phẩm vị Gia1o sư Hàm Phong cùng với Ngài Trần Nguyên Chí và Ngài Nguyễn Đán
Trích Đàn cơ mùng 1-1 Qúy Tỵ:
“ Trì Giáo Sư Hàm Phong tuân chiếu
Lập them công sẽ hiểu ân Thầy”​

Trong vụ đấu tố nhân dân vào đêm 29-3 Qúy Tỵ ( thứ ba ngày 12-5-1953) Ngài Phan Thiện Trì cùng tất cả con trai, con gái gồm hơn 10 người ( trừ ông Phan Chí Sĩ lúc ấy đang ở Sài Gòn) đều bị vây bắt đánh đập rồi giam tại lao xá tiên Hội Quảng Nam. Đến tháng 10-1953 một số được thả về con Ngài và ba người con bị giữ lại đến năm 1954 mới được thả. Năm giáp ngọ 1954 hiệp định geneve ký kết, các hướng Đạo trở về Đoàn tụ, Ngài cùng chung sức xây dựng cơ Đạo ngày một phát triễn.

Đàn cơ tại Trung Hưng Bửu Tòa ngày 24-12 ất Mùi Đại Đạo 30 ( chủ nhật ngày 5-2-1956) Đức Lý Gia1o Tông giáng dạy Hội Thánh, các tỉnh Đạo và dạy chư chức sắc.Ngài Phan Thiện Trì được Đức Lý điểm danh:

“ Trì cũng lắm căn duyên với Đạo
Nhờ bao lần khảo đảo nên danh
Chí tu nuôi được kỉnh thành
Đem công đổi lấy quả lành cũng nên”​

Năm Bính Thân 1956 xây dựng Đền Thánh Trung Hưng Bửu Tòa và thành lập Hội Thánh Truyền Gia1o ngài cũng đóng góp nhiều công sức.Ngày 27-7 năm Bính Thân ( thứ bảy ngày 1-9-1956) ngài tham dự khóa tịnh 72 ngày tại Hội Thánh và cùng đăng đàn Hồng Thệ với quý chức sắc Hội Thánh ngày mùng 9-1 Đinh Dậu 1957.
Năm giáp Thìn 1964 nạn lụt khủng khiếp tiếp theo là chiến tranh Việt – Mỹ ác liệt, bom đạn cày nát thôn quê. Năm ất Tỵ 1965 gia đình Ngài tản cư xuống An Hải Đà Nẳng. sau vì sinh kế con cháu phải di cư lập nghiệp rải rác ở các tỉnh Bình Tuy, Suối Ngệ, Sài Gòn, Vũng Tàu.

Năm canh tue61t 1970 Ngài vào Bình Tuy thăm con trai thứ 9 là Phan Chí Sĩ hiện đang lập nghiệp tại đây, sau đó vào Sài Gòn thăm con gái út là Phan Thị Cam ( bà Trần Thái Chân)

Tuổi cao sức yếu, sau hai tuần phát bệnh Ngài Phan Thiện Trì quy Tiên và ngày 4-5 Nhâm Tý Đại Đạo 47 ( thứ tư ngày 14-6-1972) tại nhà con gái ở Chánh Hưng Sài Gòn, hưởng thọ 85 tuổi. Linh cửu quàn tại Hội Trường Thánh Thất Trung Minh.

Tang lễ Ngài được Hội Thánh và Họ Đạo Trung Minh tổ chức trọng thể và an táng tại Ngiã trang Trung Minh ở xã Bình Hưng Hòa, Huyện Bình Chánh. Sau Hội Thánh cầu Phong Ngài lên Quyền Phố Sư.

-----------------------o0o---------------------

Gởi Truong Tam tiểu sử Gương Hướng Đạo Bảo Thọ Thánh Nương - Trần Doãn Cơ

TRẦN DOÃN CƠ (BẢO THỌ THÁNH NƯƠNG)

(1912-1944)
Đạo Tỷ Trần Doãn Cơ tên thật là Trần Thị Tín sinh năm nhâm Tý 1912 tại làn An tráng phủ Thăng Bình tỉnh Quảng Nam, nay là xã Bình Sơn Hiệp Đức. Đạo Tỷ là con thứ hai của cụ ộng Trần Lương ( thánh danh Trần Tri Cẩn thường gọi là Thầy Kê) , Cụ Bà Trần Thị Nhã ( Thánh danh Trần Thị Mỹ) được sinh trưởng trong một gia đình nho học ở Nông Thôn.

Năm 8 tuổi Đạo Tỷ Trần Doãn Cơ được đi học chữ Nho cùng người em kế là Trần Nguyên Chí với Thầy Huỳnh Ngọc Trác ( Thày giào Hai),được bốn năm đã đọc thông viết thạo, Thầy đặt tên là cho Đạo Tỷ là Trần Doãn Cơ,đến năm 12 tuổi nghỉ học ở nhà phụ giúp Cha Mẹ nuôi các em.Đạo Tỷ học toán rất giỏi, tính tình cởi mở dễ chịu, lanh lợi, siêng năng, đảm đang công việc nhà, nhờ ăn nói hoạt bát thuyết phục nên buôn bán cũng giỏi.

Tuy học ít nhưng chữ ngĩa rất thông, chịu ảnh hưởng và sự giáo dục của hai Ngài Trần – Huỳnh nên Đạo Tỷ Trần Doãn Cơ nuôi chí lớn, phát nguyện độc thân dâng trọn đời mình phụng sự cho Đạo cho Đời.

Khi học với thầy giáo Hai Đạo Tỷ nhớ nằm lòng và thực hành câu chữ trong sách Phật “ Huyền Tẩn Tịnh Độ Pháp Môn” và thầy giáo thường nhắc “ Bất bô tha nhơn vi Phụ Mẫu, thị thượng đẳng nữ lưu”. Có lần thân mẩu ép gả cho một gia đình khá giả trong lòng, nài xin từ chối không được cuối cùng Đạo Tỷ đích thân đến nhà trai khẩn thiết trình bày tâm nguyện và xin trả lễ, mãi sau gia đình mới hay.

Năm mậu dần 1938 năm 26 tuổi Đạo Tỷ quyết Chí tu Gỉai thoát. Ngày 24-6 Mậu Dần Đại Đạo 13 ( thứ năm 21-7-1938) tất cả môn đồn Minh Sư trong đó có gia đình Đạo Tỷ đều làm lễ quy hiệp Đạo Cao Đài tại chùa Tam Gíao An Tráng ( Thánh Thất Trung An). Từ đây Đạo Tỷ Trần Doãn Cơ tu học theo Pháp Môn Cao Đài.
Trong lúc phong trào Tân Nữ Lưu đạo đức với tổ chức “ Nữ Phái Liên Đoàn” do Đạo Tỷ Chơn Gia1c lãng đạo đang hoạt động sôi nỗi, nhận thấy đường lối chủ trương thích hợp với chí hướng mình thế là Đạo tỷ tích cự tham gia Liên Đoàn Nữ Phái, quyết xây dựng một đoàn thể nữ giới thật hung mạnh,Đạo tỷ lãnh phần sinh hoạt tài chánh cho Đoàn vói cửa hàng buôn bán ở cổng ngõ Thánh Thất Trung An.sau mấy năm dành dụm được một chút vốn liếng bị kẻ trộm lấy sạch nên Đạo Tỷ xin nghĩ về nhà.

Những người bạn cùng học, cùng tu thân thiết với Đạo tỷ từ nhỏ ở trường Đạo Tạo Mầm Non như Đạo Tỷ Võ Thị Phi Yến đã động viên Đạo Tỷ Trần Doãn Cơ trở lại nhà tu tiếp tục lập công hành Đạo tại Thánh Thất Trung An, Đạo tỷ nguyện hiến dâng đời mình cho Đạo Pháp, cho nhơn sanh. Thực tế nhất là tới lui thăm viếng, nhắt nhở cùng nhau tu học, giúp khó trợ nghèo để cùng nương nhau trên đường tu tiến.

Đạo tỷ sinh hoạt rất hăng say và tích cực trong Đạo sự . Chính trong thời gian tổ chức lễ Khánh Thành Thánh Thât Trung Thành và Đại Hội Long Vân Đệ Bát, Đạo tỷ góp phần tích cực cùng quý Tu Sĩ chùa Tam Gia1o An Tráng ( lúc đó chưa Quy Hiệp Cao Đài) lo việc tiếp tế ẩm thực cho quan khách và bổn đạo trong suốt cuộc lễ được hoàn thành tốt đẹp.

Năm quý mùi 1943 ngài Hiệp Lý Trần Nguyên Chất chú ruột của Đạo Tỷ Trần Doãn Cơ đang phụ trách quản lý Nông Viện Hội Thánh bị bắt giam ở Hội An, sau đó đưa đi an trí ở Phú Bài. Được tin ngày 9-9 Giap Thân 1944 Đạo Tỷ lặn lội từ AN Tráng xuống Hội An để tiễn ông Chú đi khúc đường.

Khi trở về qua ghe đò chợ Được làng Phước ấm xã Bình Triều Huyện Thăng Bình gặp trời mưa bão Đạo Tỷ bị cảm lạnh, vội ghé vô nhà Bà Điểm ( bạn Đạo) để tá túc. Đến giờ sử ngày mùng 10-9 giáp Thân Đại Đạo 19 ( thứ năm ngày 26-10-1944) Đạo Tỷ Trần Doãn Cơ đột ngột từ trần lúc ấy mới 32 tuổi.

Sang ngày đưa tin về Trung An thân quyến và bổn Đạo bạn bè vô cùng thương tiếc. không ngờ một đoàn viên thanh nữ giải thoát đức hạnh giỏi giang trẻ trung tháo vát, mạnh khỏa như Đạo Tỷ lại ra đi bất ngờ như vậy.
Đạo Tỷ được đưa về an táng tại quê nhà làn An Tráng Thánh Thất Trung An với nỗi tiếc thương đau buồn của toàn Đạo Trung An và “NỮ PHÁI LIÊN ĐOÀN”

Sau ngày quy tiên ơn trên gián cơ phong Đạo Tỷ Trần Doãn Cơ Thiên Vị “ Bảo Thọ Thánh Nương”, lãnh đạo tinh thần cho “Nữ Đoàn Giải thoát” Đạo Tỷ thường về cơ dạy Đạo tại Trung Hưng Bửu Tòa và các nơi, nhất là dạy chị em nữ phái trong việc tu học hành Đạo.

Hiện nay Nữ Phái Hội Thánh thành lập Dòng Tu lấy tên “ Dòng Tu Bảo Thọ” cho những chị em có chí nguyện xuất gia noi dấu người xưa

Năm nhâm Thân 1992 Hội Thánh và Văn Phòng Nữ Phái đã cải táng phần mộ Đạo Tỷ về Nghĩa Trang Tỉnh Đạo Quảng Tín ở Kỳ Nghĩa – Tam Kỳ - Quảng Nam

Ghi lại câu đối để tưởng niệm công đức của một bậc nữ Thánh:
“ Trải bao năm Tam Gíao đến Cao Đài, Quyết Tâm Học Đạo lập công, gió bụi xông pha,dìu sắt chị em nơi bể tục”
“ vừa một thuở khiếm an rồi liễu Đạo, nhẹ gót nương mây cởi hạt, móc mưa nhuần gội, thong dong ngày tháng đến non tiên”

HQ chúc Má của TT mạnh khỏe -Phụng sự Đại Đạo! vì bất cứ lý do gì .......HQ nghĩ Má của TT sẽ tự hào về TT lắm đó!
HTĐM chỉ đọc tham khảo! có gì sơ sót HTĐM chỉnh dùm nhen! HQ mượng chủ đề này để đăng vậy!
cảm ơn TT trước nhen!
Chúc cả nhà vui vẻ và ngủ ngon!
 
Sửa lần cuối:

mai_hanh

New member
Hao Quang nè!
Ba má của truongtam tự hào về con mình, đó là chuyện thường.
Chính Mai Hạnh cũng tự hào (và ganh tỵ nữa) vì có một người bạn độ được mẹ mình, hihi....
 

dong tam

New member
Haoquang viết:

"Đàn cơ 1/7 ĐĐ14, Đức Trần Tổng Lý dạy Ngài cùng với Hội Thánh lo soạn thảo kinh gia lễ Thường Hành và Đạo Lễ."

- Tìm trong TTTH1 không thấy đàn này! Có thể tìm lại bài Thánh giáo này nơi nào?

- Quyển Kinh này đã được soạn xong chưa? Nếu rồi, hiện giờ có ai đang còn lưu giữ được?

Thân ái
 

Hao Quang

New member
Kính Huynh ĐongTam! mấy ý này HQ kg rõ! Huynh có thể Liên hệ Huynh Nguyễn Sanh ở TT Trung Minh thử xem! vì tiểu sử này do Huynh Ấy sưu tầm biết đâu sẽ biết một chút thông tin gì đó! Chúc Huynh Thành công!


<OBJECT id=ieooui classid=clsid:38481807-CA0E-42D2-BF39-B33AF135CC4D></OBJECT><STYLE> st1\:*{behavior:url(#ieooui) } </STYLE>
Ngài TRẦN HOANH ( Thư Ký Tổng Lý + Hiệp Lý)
(1920 – 1996)
Ngài Trần Hoanh sanh giờ mẹo ngày mùng 9-10 canh than (19-11-1920) tại làng Kỳ Lam, tổng Đa Hòa, phủ Điện Bàn, Tỉnh Quảng Nam
Cụ cố ba đời của Ngài là một võ quan triều Tự Đức Tên là Trần Văn Trụ làm chứcLãnh Binh, tử trận tại thành Hà Nội ngày 18-10- Qúy Dậu 1873 khi quân pháp xâm lượt Bắc Kỳ

Thân Phụ là cụ ông Trần Hạc thi đậu tuyển sinh, mở trường dạy chữ Nho và Quốc Ngữ tại địa phương, năm Mậu Dần 1938 cục nhập môn vào Đạo Cao Đài và bị bắt giam vào thời điểm 1945-1949 vì theo Đạo Cao Đài nhưng được miễn tố.

Năm Tân mão 1951 Ngài Trần Hạc được cử làm Hội Trưởng Ban Cai Quản Thánh Thất Hội An, thọ phong Lễ Sanh năm Bính Thân 1956.

Ngày 11-9 Đinh Tỵ 1977 Ngài Trần Hạc quy liễu được Truy Phong Quyền Gia1o Hữu
Thân mẫu là cụ bà Thái thị Hườn, ái nữ một nhà nho tại Đa Hòa, làng Bảo An, Tổng Đa Hòa, phủ Điện Bàn. Cụ bà là cháu gọi Ngài Nguyễn Bá Trác bằng cậu ruột, một chí sĩ Đông Du trở về nước viết báo Nam Phong, sau làm Tổng Đốc Thanh Hóa, cụ Bà Quy liễu ngày 25-12 Đinh Sửu 1937

Ngài Trần Hoanh là con thứ hai mà là trưởng nam trong gia đình có 10 anh chị em, 6 trai, 4 gái
Thuở nhỏ Ngài Trần Hoanh học Quốc Ngữ và chữ Nho với thân phụ
Năm 1934 học Quốc Ngữ và Pháp Văn tại Tân lập Kỳ Lam thi đỗ bằng sơ học yếu lượt. năm mậu Dần 1938 đỗ bằng tiểu học Páp Việt, mẹ mất sớm nhà nghèo em đông Ngài pai- nghĩ học vào Sài Gòn tìm mưu sinh để phụ giúp gia đình nuôi em, vừa đi học lớp đêm.

Tại Sài Gòn Ngài làm đủ mọi nghề: lao công, bồi bếp, thủ kho, thư ký, điện thoại viên … nhận thấy biết một ít páp văn chư đủ để tìm việc làm, Ngài thường học Anh Văn và tự học tiếng Nhật. năm giáp Thân 1944 đậu bằng Trung Cấp Anh Văn

Năm ất Dậu 1945 Nhật đảo chính Pháp. Ngài trở về Quê Quảng Nam mở lớp dạy Anh Văn và tiếng Nhật. sau cách mạng tháng 8 – 1945 Ngài được cử làm Trưởng Ban Bình Dân Học Vụ xã Thái Hòa ( Kỳ Lam cũ). Trong vòng ba tháng đã thanh toán xong nạn mù chữ cho dân chúng địa phương

Cũng trong năm ất dậu năm 1945 nảy, năm 25 tuổi Ngài Trần Hoanh lập gia đình với bà Lê Thị Bán ( bảy) con gái cụ ông Lê Trí Phú và cụ Bà Nguyễn Thị Tảo, người làng Điện Hoàn, phủ Điện Bàn, Quảng Nam. Bà Bán là cháu gọi Ngài Lê Trí Hiển bằng Bác ruột, Ngài làm tri phủ hoằng hóa sau làm sau làm Trung Bộ Lễ tước Hồng Lô Tự Khanh, về hưu Nhập Môn Đạo Cao Đài được ƠN trên Phong Hiệp Lý
Ngài có 6 người con 3 trai, 3 gái
- Trần Hiên sinh ngày 18-2 Đinh Hợi 1947 có vợ con sinh sống tại Tiền Giang, quy liễu năm Bính Tý 1996
- Trần Xuân Huân sinh 18-1 Bính Thân 1956
- Trần Thị Huỳnh Hoa sinh Đinh Dậu 1957 quy liễu 1974
- Trần thị Kim Cúc sinh Kỷ Hợi có chồng con
- Trần Thị Xuân Lan sinh Tân Sửu 1961
- Trần Quang Huy sinh Nhâm Dần 1962 có vợ con
Tất cả đều sinh sống tại phường 18 Quận Tân Bình – HCM

Năm Bính Ttuất 1946 Ngài Đắc cử Hội Đồng Nhân Dân xã Thái Hòa được cử làm ủy viên bộ chính trị tự vệ xung phong xã
Trong thời gian khánh chiến chống Pháp, nhà cửa Ngài bị giặt phá tan tành, trâu bò gia sản bị máy bay thiêu rụi, chú ruột và em ruột bị máy bay giặt bắn chết, gia đình Ngài Trần Hoanh dọn vào Sài Gòn tìm sinh kế
Năm Ât Mùi 1955 Ngài làm cán bộ thanh niên tại Bộ Lao Động và Thanh Niên.

Năm 1956 Ngài trúng tuyển Biên Tập Viên Nha Chiến Tranh Tâm Lý Bộ Quốc Phòng đồng hóa Trung Sĩ Nhứt, không bằng lòng với sự nghiệp đồng hóa nhà binh Ngài luôn tìm cách sang ngành Dân Chính.. thời buồi lúc bấy giờ muốn tiến thân phải có bằng cấp. trước kia bằng Năng Lực Thuật Khoa được xem tương đương Tú Tài. Ngài bằng nộp chứng chỉ đag học theo ban Tú Tài để ghi danh học Năng Lực Luật tại trường Đại Học Luật Sài Gòn.

Năm mậu Tuất 1958 Ngài đậu bằng Năng Lực Luật Khoa, Ngài muốn đi đường tăt cho nhanh nhưng gặp trở ngại, bằng Năng Lực Luật Khoa muốn có có giá trị phải có bằng Phổ Thông, Ngài vừa đi làm vừa tự học để thi lấy Bằng Cấp

Năm 1959 đậu Bằng Trung Học, vì đang ở trong Nhà Binh Ngài được xếp ngạch Thu Ký Hành Chánh Trung ương miễn thi, nhưng chưa ra Dân chính được vì Nha Chiến Tranh Tâm Lý đang cần.
Năm 1962 ngài trúng tuyển lục sự Tòa án Quân sự được thăng cấp Thượng Sĩ.
Năm Gia1p Thìn 1964 được giãi ngũ, làm thư ký hành chánh Ngạch Trung ương tại phòng Tổng Quản Trị Bộ Tổng Tham Mưu . muốn thi vào ngạch Tham Sự Hành Chánh pải có bằng Tú Tài I cộng với Thâm biên công vụ và ở ngạch Thư Ký Hành Chính. Ngài đi học vừa tự làm để thi lấy bằng Tú Tài

Năm 1971 đậu tú tài I, đủ điều kiện Ngài thi đỗ vào ngạch Tham Sự Hành Chánh tại Bộ Gia1o Dục. được Bộ Gia1o Dục cử đị học Kế Toán Thương Mại do Viện Tu Học Quốc Gia Phối Hợp với viện trợ Mỹ tổ chức để chuẩn bị thực hiện trong ngành Kế Toán Hành Chánh các cơ Quan Nhà Nước
Năm 1972 tốt nghiệp Kế Toán Thương mại căn bản I, năm 1973 tốt nghiệp kế toán căn bản II, cũng trong năm này tốt nghiệp khóa huấn luyện cấp chỉ Huy Trung Tâm Chuẩn Chi

Năm 1974 ngài tốt nghiệp khóa Thanh Sát Kế Toán ( Kiểm Toán)
Ngày 30-4-1975 miền Nam được hoàn toàn giải phóng Ngài tiếp tục phục vụ trong Ngành Kế Toán được sáu tháng thì được cho nghỉ việc
Năm Bính Thân 1976 Ngài đi Kinh tế mới tại xã Láng Dài Bà Rịa
Năm 1977 làm kế toán đơn vị Thi Công Hòa Tiến tại công trường Thủ Lợi Sông Pha ,Phan Rang
Năm 1979 làm trưởng phòng hành chánh Quản Trị công ty hợp doanh thủy lợi Thuận Hải,
Năm 1980 nghỉ hưu

ĐẠO NGHIỆP

Ngày 25-12- Đinh Sửu ( 26-1-1938) thân Mẫu Ngài từ trần. cụ ông Thân sinh định rướt Thầy chùa về cúng Tuần. Người em cô cậu ruột của cụ ông ( ông Chánh Dũ) đã nhâp môn Đạo Cao Đài từ trước, hướng dẫn đi mời Ngài Gia1o Sư Nguyễn Quang Châu về nhà thiết lễ cúng tuần cho cụ bà

Thấy nghi thức cúng kiến trang nghiêm mới mẻ không mê tín dị đoan, không giấy tiền vàng mã, nghe kinh Quốc Ngữ dễ thong dễ hiểu, nhất là những lời giản dạy uyên thâm thiết thực trong kinh Tà CHánh Yếu Ngôn đã làm cho cả gia đình cảm phục. chú ruột Ngài Trần Hoanh nguyên Gia1o Sư dạy học thường gọi là cụ Gia1o úy. Từ trước nay không một Tôn Gia1o nào đến thuyết phục được nay cũng cảm phục Đạo Cao Đài
Thế là ngày 15-1-Mậu Dần ( thứ hai ngày 14-2-1938) Ngài Trần Hoanh theo Cha và chú đến Nhập môn Đạo Cao Đài tại Thánh Tịnh Thanh Quang, sau đó không lâu cụ Gíao Úy thọ phong Lễ Sanh và làm Đầu Họ Đạo Thánh Tịnh Thanh Quang
(Còn Tiếp)
 
Sửa lần cuối:

dong tam

New member
Haoquang viết:

"Đàn cơ 1/7 ĐĐ14, Đức Trần Tổng Lý dạy Ngài cùng với Hội Thánh lo soạn thảo kinh gia lễ Thường Hành và Đạo Lễ."

- Tìm trong TTTH1 không thấy đàn này! Có thể tìm lại bài Thánh giáo này nơi nào?

- Quyển Kinh này đã được soạn xong chưa? Nếu rồi, hiện giờ có ai đang còn lưu giữ được?

Thân ái

Các bạn,

Hiện nay tôi chỉ tìm thấy quyển Kinh LỄ GIÁO THƯỜNG HÀNH (Đạo Lễ và Gia Lễ) của Thánh thất Cầu Kho và Thánh thất Tam Quan – Bình Định phát hành năm 1939, nơi trang 14 ghi là: “Ngũ nguyện: siêu độ huyền linh”.

Không biết Kinh Gia Lễ Thường hành Đạo Lễ đã thật sự có hay chưa!

Xét về yếu tố lịch sử, Quyển Kinh của Thánh thất Cầu Kho hợp tác với Thánh thất Tam Quan thật sự đã xuất bản và ra đời đúng năm 1939 (năm Đại Đạo thứ 14)

Quả thật đây là một chi tiết thú vị về mặt nghiên cứu sử! Vì hồi năm 2008 trong Lễ Kỷ Niệm 70 năm ra đời Thánh thất Trung Thành được tổ chức tại Hội Thánh Truyền Giáo, khi có người đọc tham luận cho rằng Đạo Cao Đài chính thức được đưa ra miền Trung bắt đầu từ Trung Thành Thánh thất vào tháng 4 Mậu Dần 1938 thì có Đạo huynh HUỆ TRÍ (Tổng Thư Ký Hội thánh Tam Quan) phản ứng với phát biểu rằng: "Trước đó 3 tháng vào mùng 8 và mùng 9 tháng giêng Mậu Dần, Đức Chí Tôn đã cho Khánh Thành ra mắt thánh thất Sa Huỳnh - Bình Định."

Nhưng tiếc là huynh Huệ Trí không đưa ra được bằng chứng cụ thể (tài liệu vật chứng) để chứng minh phát biểu của mình!

Trở lại vấn đề KINH GIA LỄ THƯỜNG HÀNH, Hào quang nói nhưng chưa đưa ra được vật chứng. Còn bên Hội thánh Cầu Kho Tam Quan ngày nay lại có vật chứng trong tay!

Quả là thú vị!
 

Hao Quang

New member
Cảm ơn Huynh ĐT. HQ chỉ chuyển tải tiểu sử từ một cuốn sách lên diễn đàn thôi. Hy vọng HTĐM tìm được cái gì đó vậy là vui rồi. Chúc Huynh vui vẻ

Cảm ơn Huynh ĐT. HQ chỉ chuyển tải tiểu sử từ một cuốn sách lên diễn đàn thôi. Hy vọng HTĐM tìm được cái gì đó vậy là vui rồi. Chúc Huynh vui vẻ<?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:eek:ffice:eek:ffice" /><o:p></o:p>
<o:p></o:p>
HQ tiếp tiểu sử Ngài Trần Hoanh:<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
"Sau ngày nhập môn Đạo Cao Đài, vì hoàn cảnh Ngài Trần Hoanh vào Sài Gòn tìm kế mưu sinh và học văn hoá. Trong thời gian này Ngài thường đến sinh hoạt và tìm hiểu giáo lý hoặc hầu đàn cơ tại các Thánh Thất nội thành hoặc ngoại thành như Cầu Kho, Đại Thanh, Minh Kiến Đài, Ngọc Điện Huỳnh Hà ...Nhất là tiểu Đại Thanh ( nhà ông Mười Tha) một đạo hữu nghèo ít ai dòm ngó, cũng là nơi Ngài tá túc lâu nhất để tránh sự theo dõi của Mật Thám Pháp. Cũng tại nơi đây Ngài tập tiếp điễn Thiêng Liêng.<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
Năm Ất Dậu 1945 Nhật đảo chính Pháp Ngài Trần Hoanh trở về Quảng Nam hành Đạo tại Thánh Tịnh Thanh Quang làm từ hàng Ban Cai Quản, Đoàn Trưởng Tráng Anh Đoàn, lo tổ chức các Lễ Quan, Hôn, Tang, Tế, tổ chức thuyết Đạo tại Thánh Tịnh và các Thiên Bàn, dạy bổ túc văn hóa cho lễ sĩ Đồng Nhi.
<o:p></o:p>
Sau Cách Mạng Tháng 8 - 1945 Ngài bị bắt giam tại nhà lao tỉnh Quảng <?xml:namespace prefix = u1 /><u1:country-region u2:st="on"><u1:place u2:st="on">Nam</u1:place></u1:country-region> chín ngày vì hoạt động Cao Đài <o:p></o:p>
Năm Bính Tuất 1946 quân Pháp tái chiếm Đà Nẳng, Cơ Quang Truyền Giáo Trung Bắc Bộ phải di chuyển vào Thánh Tịnh Thanh Quang rồi di chuyển lên Sở Nông Phước Hội và Tứ Trung, các Thánh Thất như Trung Thành, Từ Quang, Thanh Quang, Nam Trung Hoà, Linh Bửu ... di tản lên các nơi trên.<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
Ngày 23 – 2 Đinh Hợi 1947 gia đình Ngài tả cư lên Phú Gia huyện Quế Sơn. Trong ngày này cụ ông Lễ Sanh Trần Văn Uý chú ruột Ngài bị máybay Pháp bắn chết, em ruột Ngài là Trần thị Loan bị trong thương chết sau đó một tuần.<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
Đàn cơ Ngày 15-3 năm Đinh Hợi 1947 do Đồng Tử Liên Hoa thủ cơ ơn trên phê chuẩn thành phần Cửu Viện dưới Quyền Tổng Lý Đức Trần Hưng Đạo, Hiệp Lý Ngài Trần Nguyên Chất. Trong đàn cơ này ơn trên chỉ định Ngài Trần Hoanh làm Thư Ký Tổng Lý Kiêm Thư Ký Hiệp Lý , nột tá Hiệp Thiên Đài kiêm Điển Ký Bộ Phận Thông Công. Pháp Đàn Ngài Trần Nguyên Chí, Độc Gỉa Ngài Lê Trí Vinh. Các phò loan Chí Bửu( Trần Mộc) đồng Dương, Chí Lân ( Trần Anh Tuấn) đồng âm tập dượt từ đây. Ngài luôn sát cánh cùng các Hướng Đạo để thi hành Đạo sự, Ngài được giao những nhiệm vụ:<o:p></o:p>
- Soạn thảo và đọc diễn văn trong các Đại Hội<o:p></o:p>
- Thư ký các buổi hội nghị<o:p></o:p>
- Kiểm tra sổ sách kế toán Sở Nông và khu Tiểu Công Nghệ<o:p></o:p>
- Đại diện Hội Thánh dự các buổi mit tin, hội hiệp do Chính Quyền tổ chức<o:p></o:p>
Ngài soạn thảo hai chương trình về sinh hoạt tại Sở Nông và Khu Tiểu Công Ngệ là ( chương trình sống chung – chương trình trật tự, vệ sinh) được Đại Hội Hội Thánh chấp thuận.
<o:p></o:p>
Hô hào tất cả Đạo Hữu các Thánh Thất tản cư lên Phước Hội và Tứ Trung, không phân biệt giàu nghèo, đều góp vào hằng sản của mình chung thành tài sản công để san sẻ cho nhau trong cụôc sống hiện tại. cùng đem hết tài năng, sức lực, trí tuệ kinh nghiệm tích cực khai hoang sản xuất, mở mang tiểu thủ Công Nghiệp nhất là nghành dệt. tất cả tài sản, sản phẩm, tài chính, đều bỏ vào ngân khố công quỹ, có thu kho, thủ quỹ, kế toán chịu trách nhiệm. Mọi việc thu, chi, xuất, nhập đều có sổ sách, hằng tháng có Đại diện Hội Thánh kiểm tra thanh sát …<o:p></o:p>
về trật tự vệ sinh, các con đường tại Sở Nông và khu tiểu Công Nghiệp đều có tên riêng, Nhà cửa có số liệu bên chẵn, bên lẽ nhà phải sạch sẽ ngăn nắp không đuợc đổ rác ra đường, có nhà vệ sinh công cộng ….<o:p></o:p>
Văn Phòng Tổng Lý và Hiệp Lý cùng bộ phận thông công Hiệp Thiên Đài đóng tại Tịnh Đức Đường mới xây cất. Đối diện là Văn phòng Cửu Viện đóng tại Hội Trường Sở Nông. Trong vòng một tháng mọi sinh hoạt tải Sở Nông và khu Tiểu Công Ngệ tại Tứ Trung đi vào ổn định.<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
Tháng 5 năm Đinh Hợi năm 1947 Sở Nông Phước Hôi bị máy bay Pháp bắn phá làm nhiều người chết và bị thương. Đến tháng 9 Hội Thánh phải di tản và Thánh Thất Trung An làng An Tráng Phủ Thăng Bình. ở đây tạm yên chương trình Cửu Viện được thực hiện.<o:p></o:p>
- Lễ Viện lo củng cố ban lễ nhạc. Tổ chức trọng thể lễ Truy điệu Ngài Huỳnh Ngọc Trác Hi Sinh trong mùa Pháp nạn tại Qũang Ngãi nắm Ât Dậu có chính quyền địa phương tham dự.<o:p></o:p>
- Phổ Thông Gíao Lý viện lo tổ chức các khoá huấn luyện giáo lý đoãn kỳ và đào luyện giảng viên cho các Thánh Thất<o:p></o:p>
- Học viện lo tuyển chọn Gíao Viên bổ nhiệm đến giảng dạy tại các trường tiểu học ở các Thánh Thất<o:p></o:p>
- Nông viện lo khẩn hoang sản xuất và khuến khích các Thánh Thất mở mang Nông Ngiệp<o:p></o:p>
- Công nghiệp tiếp tục khếch trương tiểu thủ công nghiệp<o:p></o:p>
- Phước Thiện viện và Lương Viện Chăm lo kế hoạch kinh tài để cung ứng cho các Đạo Sự của Hội Thánh đồng thời tài trợ cho các Thánh Thất và Đạo Hữu tản cư.<o:p></o:p>
- Nội Ngoại Giao Viện lo thuyên bổ Chức Sắc, Chức Việc hành chánh Đạo các cấp từ Thánh Thất đến Tỉnh Đạo, cử đại biểu tham gia mặt trận Liên Việt từ cấp xã đến Liên Khu.<o:p></o:p>
tất các Chức Sắc Hướng Đạo đồng chung tay hiệp lực, không ngại khó khăn gian khổ xây dựng và mở rộng cơ Đạo khắp các tỉnh ở Liên Khu 5.
<o:p></o:p>
Đàn cơ tại Thánh Thất Trung An và đêm 28-11 Đinh Hợi 1947 do Chí Bửu và Chí Lân thủ cơ, Pháp Sư là Trần Nguyên Chí, Độc Gỉa là Trương Sưu Xuyên, Điễn Ký Nguyễn Xuân Kinh, Đức Chí Tôn Gíang Cơ ban Thánh Lịnh triệu tập các Tỉnh Đạo Qủang Nam, Qủang Ngãi, Bình Định, Phú Yên, về dự Đại Hội tại Thánh Thất Trung An, Trụ Sử Cơ Quan Truyền Gíao Trung Bắc Bộ.
<o:p></o:p>
Thánh lịnh nêu đích danh những vị được triệu tập và ấn định nhày Đại Hội là mùng 9-1 Mậu Tý 1948, Thánh Lịnh cũng giao nhiệm vụ đi triệu tập cho hai ngài Nguyễn Xuân Kinh và Trương Sư Xuyên . Thật là bất ngờ, mọi người lo ngại vì thời gian quá gấp rút, đường sá khó khăn. từ Qủang <u1:country-region u2:st="on"><u1:place u2:st="on">Nam</u1:place></u1:country-region> vào Phú yên trên 300 câysố giao thông khó khăn phần nhiều phải đi bộ. Những người được ơn trên triệu tập hiện chưa biết mất còn vì đã mấy năm không lien lạc được. Bàn quan tính lại cuối cùng đều chung một ý đã có Thánh Lịnh tất có vô hình yểm trợ, nên không dám trái Thánh Ý.<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
Hai sứ giả Nguyễn xuân Kinh và Trương Sư Xuyên cấp tốc lên đường. Thật là một giáo vụ mạo hiểm, nếu không có Đức Tin trọn vẹn thì khó mà thực hiện được<o:p></o:p>
Hai sứ giả Nguyễn xuân Kinh và Trương Sư Xuyên cấp tốc lên đường. Thật là một giáo vụ mạo hiểm, nếu không có Đức Tin trọn vẹn thì khó mà thực hiện được.
<o:p></o:p>
Thánh Lịnh được các nơi tiếp nghinh trọng thể. Các Tỉnh Đạo khi tiếp được Thánh Lịnh đều tức tốc sắp xếp về Hội Thánh, Phái đoàn tỉnh Đạo Phú Yên về sau cùng với hai sứ giả đúng vào ngày Trừ Tịch. Các nơi về đầy đủ Hội Thánh liền triệu tập các Thánh Thất thuộc tỉnh Đạo Quảng Nam phân công tổ chức Đại Hội.<o:p></o:p>
Ngài Trần Hoanh được phânc ông soạn thảo điển văn và đọc trước Đại Hội quan trọng này. Tham dự Đại Hội gồm có các Phái Đoàn:<o:p></o:p>
- Tỉnh Đạo Phú Yên: Đặng Quang Mihn, Huỳnh Ngọc Thọ<o:p></o:p>
- Tỉnh Đạo Bình Định: Huỳnh Thanh, Hồ Kiển, Huỳnh Quang Bình, Huỳnh Quang Ngọc, Phan Nghĩa.<o:p></o:p>
- Tỉnh Đạo Quảng Ngãi: Trần Nam, Nguyễn Dũng, Nguyễn Thời, Võ Công...<o:p></o:p>
- Tỉnh Đạo Quảng Nam: Cao Hữu Chí, Nguyễn Văn Hoá, Lê Thành Tiến, Ngô Chánh Huy<o:p></o:p>
- Tỉnh Đạo Thừa Thiên: Nguyễn Ngọc Hoà, Đặng Ngọc Dược. Hai vị này thuộc khâm châu Đạo thừa Thiên ( Tây Ninh) và dự đại Hội Thánh Thất Trung Thành Cơ Quan Truyền Giáo Trung Bắc Bộ nam 1946 bị kẹt lại vì chiến cuộc, nên cùng tản cư theo Hội Thánh.
<o:p></o:p>
Đại Hội Khai mạc lúc 8 giờ sáng ngày mồng 9 -1-Mậu Tý Đại Đạo 23( thứ 4 ngày 18-2-1948) nhân ngày Thánh Đán Đức Chí Tôn. Đại Hội diễn tiến 3 ngày trong bầu không khí trang nghiêm đầy tình tương thân, tương ái. Đại Hội đồng thanh chấp nhận thành phần Cửu Viện và bổ sung thêm nhân sự đầy đủ các Tỉnh Đạo. Danh xưng Hội Thánh cũng được đổi lại là Cơ Quang Truyền Giáo Trung Bộ dưới quyền Tổng Lý Đức Trần Hưng Đạo và dưới quyền Hiệp Lý của Ngài Trần Nguyên Chất.<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
Hội Thánh tuân hành Pháp Chánh Truyền, Tân Luật, Thánh Ngôn Hiệp Tuyển và nội luật Thánh Tòa Khai Giáo Bắc Trung làm mẫu mực Giáo Quyền, lấy dân sanh, dân đức, dân trí làm cứu độ sanh linh. Đại Hội đạt được kết quả mỹ mãn. Các tỉnh đạo chia tay nhau trong tình lưu luyến (còn tiếp)<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
Thành phần lãnh Đạo các Tỉnh Đạo lúc bấy giờ được phân bổ như sau:<o:p></o:p>
- Phú Yên: Đầu tỉnh Đạo Nguyễn Khoa Trường - Giáo Hữu Phổ Thông: Trần Cư, Nguyễn Thanh Vân<o:p></o:p>
- Bình Định: Đầu Tỉnh Đạo Huỳnh Thanh - Giáo Hữu Phổ Thông: Nguyễn Xuân Kinh, Nguyễn Thanh Giang<o:p></o:p>
- Quảng Ngãi: Đầu Tỉnh Đạo: Trần Nam - Giáo Hữu Phổ Thông: Nguyễn Chơn Long, Nguyễn Đình Anh.<o:p></o:p>
- Quảng Nam: Đầu Tỉnh Đạo: Cao Hữu Chí - Giáo hữu Phổ Thông: Ngô Chánh <o:p></o:p>Duy
Các tỉnh Đạo hăng say hành Đạo. Tỉnh Đạo cũng mở các khóa Giáo lý, mở trường tiểu học , tăng gia sản xuất, thực hiện phước thiện .....
<o:p></o:p>
Phạm vi hành Đạo mở rộng, người ít việc nhiều, cữu viện được thu gọn thành ba cơ quan: dân đức, dân trí và dân sinh. Mỗi cơ quan do một chưởng quản và một thư ký điều hành chịu trách nhiệm trước Tổng Lý và Hiệp Lý.<o:p></o:p>
- Cơ Quan Dân Đức gồm: Lễ Viện, Phước Thiện Viện, Hòa Viện<o:p></o:p>
chưởng quản: Lễ sanh Lương Triết, Thư Ký Nguyễn Hậu<o:p></o:p>
- Cơ Quan Dân Sanh: gồm Công Viện, Nông viện, Lương viện<o:p></o:p>
chưởng quản: Giáo Hữu Nguyễn Đán, Thư Ký Đặng Ngọc Dược<o:p></o:p>
- Cơ Quan Dân Trí: gồm Nội Ngoại Giao Viện, Phổ Thông Giáo Lý Viện và Học Viện<o:p></o:p>
Chưởng Quảng: Giáo Sư Nguyễn Quang Châu, Thư Ký Trần Hoanh<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
Đạo mạch lưu thông phát triễn khắp nơi tạo nên khí thế phấn khởi<o:p></o:p>
(còn tiếp)<o:p></o:p>
 
Sửa lần cuối:

Hao Quang

New member
Cuối năm mậu tý 1948 cơ đạo gặp nhiều khảo đảo, chiến tranh lan rộng văn phòng Hội Thánh phải dời về HIền Lộc nhà ông Phan Khanh ( con trưởng Ngài Phan Thiện Trì) ở xã Thăng Lãnh Quận Thăng Bình. Sau lễ bế giảng khóa Giáo Lý, các chức sắc lãnh đạo tỉnh Phú Yên bị bắt, ngày mồng 8 – 1 năm Kỷ Sửu 1949 Ngài Nguyễn Quang Châu và Ngài Huỳnh Thanh Hải bị bắt. Sau ngày Thánh Đán Đức Chí Tôn Ngài Gia1o Hữu Nguyễn Đán và Ngài Trần Hoanh bị bắt, lần lượt sau đó Ngài Hiệp lý Trần Nguyên Chất, chức sắc chức việc các tỉnh đạo, Thánh Thất và một số bổn đạo bị bắt về Công An Tỉnh.

Tổng cộng số chức sắc bổn đạo nam nữ bị bắt là 112 người. Phiên tòa quân sự liên khu 5 Bồng Sơn ngày 5-10 Kỷ sửu ( chủ nhật 4-12-1948) Ngài Trần Hoanh bị ke61ta1n 8 năm tù với tội danh “ đội lốt Tôn Gia1o Cao Đài hành động phương hại đến công cuộc kháng chiến” . Cùng với 22 người khác bị xử từ 1 đến 10 năm tù, sau đó đưa đi khắp các nhà lao trong Tỉnh.

Ngài Trần Hoanh cùng với Ngài Nguyễn Quang Châu, Nguyễn Đán bị giải giam nhiều nơi khắp các nhà tù Liên Khu 5 thuộc các tỉnh Nam , Nghĩa, Bình, Phú. Khi lên Miền thượng lúc xuống miền xuôi, rừng thiên nước độc, lam sơn chướng khí, rét rừng phù thủng, da vàng, lao động cực nhọc cả thể xác lẫn tinh thần, nhưng vẫn không lay chuyển lòng tin Thầy, Tin Đạo như Ngài Tự Nguyện:

Vì tu nên nỗi phải vô tù
Tù ở nhưng lòng vẫn cứ tu
Tu mãi đến ngày tù mãn hạn
Ngày tù mãn hạn cũng về tu

Ngài thực hiện đúng lời nguyện, khi mãn hạn tù về Ngài vẫn tiếp tục con đường tu học đóng góp cho Gia1o Hội.
Sau ngày ký hiệp định Genève 20-7-1954 Ngài Trần Hoanh cùng ngài Nguyễn Quang Châu, Ngài Nguyễn Đá đang bị giam tại lao Cầu Gìanh ( Bình Định) được thả về đoàn tụ với bổn đạo vào lúc 11 giờ ngày chủ nhật 17-10-1954 ( 21-9 – giáp Ngọ) tại Thánh Thất Hội An. Lễ đoàn tụ được tổ chức khắp nơi, cơ đạo được Phục Hưng.

Trong thời chiến tranh nhà cử bị tàn phá, đến năm ẤT MÙI 1955 Ngài Trần Hoanh cùng gia đình dọn vào Sài Gòn sinh sống. Để phát huy cơ Đạo Trung Hưng và quy tụ một số bổn đạo miền Trung hiện đang sinh sống tại Sài Gòn.
Để phát Huy cơ Đạo Trung Hưng ngày 16-7 Đinh Dậu ( chủ nhật ngày 11-8-1957) Ngài Trần Hoanh,Lê Thành Tiến, Nguyễn Thanh Vân …và hơn 20 đại biểu các Thánh Thất Miền Trung họp tại Thánh Thất Từ Vân Phú Nhuận có sự chứng dự của Ngài Thanh Long, Bạch Hổ, Trần Luyện …Quyết định thành lập Họ Đạo Nam Phần với mục đích nối tiếp truyền thống quyền Hội Thánh Trung Kỳ, phát huy đường lối hành đạo của Cơ Quan Truyền Gia1o Trung Bộ, một truyền thống Đạo Lý nhất thống từ Hướng Đạo đến nhân sinh.

Truyền thống thuần chơn đạo đức chân chính tín ngưỡng, không chi phái, không địa phương, không kỳ thị cố chấp, không xâm lấn vào nội bộ chi phái, giao hảo cảm tình, liên kết với các chi phái Đạo và các Tôn Gia1o bạn. Tuân thủ Pháp Chánh Truyền và Tân Luật, Thánh Ngôn Hiệp Tuyển không tạo hình thức mới, không bày đặt kiểu cách lạ, không in khuôn rập mẫu một chi phái nào, giữ cho bản chất nền Đạo trước sau như một là Đem Đạo và Đời, độ đời nên Đạo.

Hội Nghị đã thông qua bản nội quy và bầu ra Ban Hành Sự gồm 7 người do Ngài Trần Hoanh làm Trưởng Ban, Ngài Lê Thành Tiến làm chủ vệ Quan, Hôn, Tang, Tế. Họ Đạo Nam Phần tạm thời sinh hoạt lễ bái tại Thánh Thất Từ Vân Phú Nhuận, sau dời qua Thánh Thất Huỳnh Đức Đàn ở đường Nguyễn Thiện Thuật Bàn Cờ.

Hội Thánh chấp thuận Họ Đạo Nam Phần qua Đạo Văn số 102/VP/HT đề ngày 4-8 nhuần năm Đinh Dậu Đại Đạo 32 |( Thứ Sáu 27-9-1957)
Năm Gia1p Thìn 1964 nạn lụt khủng khiếp tại Miền Trung tiếp đến chiến tranh tràn lan, Đạo Hữu miền Trung lũ lượt tỵ nạn vào Sài Gòn ngày càng đông, Họ Đạo Nam Phần là nơi đón nhận và lo chổ ăn ở cho bổn đạo này
Do những nhu cầu trên, để có nơi dung chứa và sinh hoạt lễ bái cho toàn bổn Đạo. Một cuộc họp bất thường tại nhà Ngài Lê Thành Tiến vào ngày 23-2 năm Ất Tỵ và Ngày 1-3 Ât Tỵ , với sự chứng dự Ngài Lương Vĩnh Thuật, Trần Quang Châu, Trần Luyện cùng đông đảo chức sắc bổn đạo tham dự. Toàn Hội Nghị nhận định:
-công cuộc phát triễn Truyền Gia1o tại Miền <!--?xml:namespace prefix = st1 ns = "urn:schemas-microsoft-com:eek:ffice:smarttags" /--><st1:place w:st="on"><st1:country-region w:st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> ngày càng thiết yếu

-Tình trạng tỵ nạn của Đạo Hữu Miền Trung ngày càng dồn dập, tính cách tạm bợ về nhân sự cũng như trụ sở của Họ Đạo Nam Phần không đáp ứng được các nhu cầu Hành Đạo hiện tại, do đó Hội Nghị đồng thanh Quyết định:
+ Thành Lập Thánh Thất
+ Gỉai tán Banh Hành Sự, bầu Ban Cai Quản
Hội nghị bầu ra ban cai quản lâm thời do Ngài Trần Hoanh làm trưởng ban. Thành lập ban trị sự các xã Đạo, Danh Bộ Đạo, xúc tiến việc Thành Lập Thánh Thất

Được biết ở quận sáu( nay là quận XI) có bán ngôi nhà, Họ Đạo liện cử Ngài Lê Thành Tiến, Ngô Chánh Duy, Ngài Trần Hoanh đi liên hệ. Việc thương lượng gặp nhiều trở ngại, nhưng được sự giúp đỡ tận tình của ông Dương Bằng cuối cùng Họ Đạo cũng mua được xưởng dệt của ông Dương Bằng chiều Ngang 8m, sâu 20m, mái lợp tole, tường xây, nền xi măng nằm ở đường Bình Thới Quận 6 với giá 140.000đ

Mua được nhà nhưng lại không đủ tiền trả, quý vị lo chạy mượn và được anh Lớn Thanh Long, Gia1o Hữu Lê Quang Sách, Nguyễn Thanh Vân, Nguyễn Ngọc Lang, Lê Thành Tiến, Tổng Đoàn Thanh Niên Hưng Đạo cho mượn tổng cộng được 103.000đ, với số tiền của Họ Đạo 42.000đ tất cả được 145.000đ vừa đủ trả tiền nhà và mua sắm một số vật dụng.

Ngày 30-4 Ất Tỵ Họ Đạo tiếp nhận quyết định số: 17/HT/QN/40 đề ngày 14-5-1965, Hội Thánh chấp thuận cho Họ Đạo Nam Phần Sài Gòn một Thánh Thất danh hiệu Trung Minh. Đồng thời Hội Thánh cũng bổ nhiệm Quyền Gia1o Hữu Ngọc Hoành Thanh ( Gia1o Tịnh), nguyên Trấn Nhậm Tỉnh Đạo Bình Tuy đang tỵ nạn chiến tranh tại Sài Gòn làm quyền Đầu Họ Đạo Thánh Thất Trung Minh theo Đạo văn số: 1579/HT/NC đề nga2y-5-1965 ( 26-4 Ât Tỵ) cùng văn thư số: 1578/HT/NC đề nga2y-5-1965 của Hội Thánh duyệt ban Cai Quản lâm thời Thánh Thất Trung Minh

Sau khi được sự chấp thuận của Hội Thánh, Họ Đạo lo tu sửa trang hoàng lại Ngôi Nhà, dựng bảng hiệu Thánh Thất. Nhiệt thành vì Đạo quý Đạo Huynh: Lê Thành Tiến, Nguyễn Thanh Vân, Ngô Trân, Phạm Lầu, Huỳnh Ngọc …đã tự nguyện công quả tư hữu để xây thành ngõ và trán sân .

Giờ Ngọ ngày mồng 6-6 năm Ât Tỵ Đại Đạo 40 ( Chủ nhật ngày 4-7-1965) chính thức cử hành lễ Thượng Tượng anVị Thánh Thất Trung Minh do Gia1o Hữu Ngọc Hoành Thanh Đầu Họ Đạo Thánh Thất làm chủ lễ với đầy đủ chức sắc,chức việc cùng toàn Đạo. Đặc biệt có sự chứng dự của Qúy anh Lớn Chức sắc Hội Thánh. Từ đấy trên con đường Bình Thới, Chợ Lớn đồng bào qua lại nhìn thấy Thánh Thất Trung Minh Đạo Cao Đài thuộc Hội Thánh Truyền Gia1o thường xuyên hội họp lễ bái linh đình tấp nập…

Đại Hội nhân sinh đầu tiên tại Thánh Thất Trung Minh được tổ chức vào ngày Trung Ngươn 15-7-Ât Tỵ (11-8-1965). Đại Hội quy tụ hơn 400 bổn đạo gần xa về tham dự với sự có mặt quý chức sắc Hội Thánh và một số bổn đạo thuộc Hội Thánh Bến Tre , Tòa Thánh Tây Ninh ở lân cận cũng về đảnh lễ tại đây.

Trong ngày Đại Hội Nhân Sinh này, Họ Đạo tổ chức bầu ban cai quản chính thức. Ngài Trần Hoanh đắc cử trưởng ban Cai Quản Thánh Thất Trung Minh. Sau khi nhận nhiệm vụ trưởng ban Cai Quản Thánh Thất Trung Minh , Ngài tiến hành đặt những Kế hoạch để thực hiện các đạo sự từ 1965-1969:
-xây cất Thánh Thất
-Vạch định khu vực Hành Chánh Đạo 4 xã Đạo: Sài Gòn Chợ Lớn, Phú Trung, Bảy HIền, Phú Nhuận
-Thành lập và kiện toàn các ban Trị Sự, Văn Phòng Nữ Phái, thành lập ban lễ nhạc, đồng nhi lễ sĩ, tổ chức các khóa học giáo ly Hành Chánh Đạo
-Tạo lập Nghĩa Trang, thiết lập nghĩa từ, bầu ban Quản trị
-Đặt trụ sở tòa Tổng Đại diện, trụ sở phân đoàn Thanh Niên Hưng Đạo
-Thành lập sổ sách, kế toán, tài chánh, công quả
-Liên giao hành Đạo với các Hội Thánh, cơ quan Đạo, và Thánh Thất Bạn
Với hai trọng trách nặng nề lại xa xôi cách trở nên Gia1o Hữu Ngọc Hoành Thanh xin nghĩ chức vụ Đầu Họ Đạo Thánh Thất Trung Minh. Được Hội Thánh chấp nhận và bổ nhiệm Gia1o Hữu Thượng Đào Thanh( Ngô Đào) Nguyên Đầu Họ Đạo Đại Đồng xã Đà Nẵng làm Đầu Họ Đạo Thánh Thất Trung Minh theo quyết định số: 009/HT/NC/QĐ đề ngày 18-7-1967 nhằm 15-9 Đinh Mùi.

Do nhu cầu cơ Đạo Hiện Tại. Năm Mậu Thân 1968 Văn Phòng Đại Diện Hội Thánh được nâng lên Tòa Đại Diện Ngoại Giao Hội Thánh. Ngài Trần Hoanh được cử làm Tổng vụ trưởng Hành CHánh, cùng một lúc phải gánh vác hai trọng trách nặng nề, Ngài đã đêm hết tâm lực để hoàng thành trách nhiệm Tòa Tổng Đại Hiện giao phó và hoạch định nhiều kế hoạch thực hiện cho Họ Đạo Trung Minh ngày thêm Phát Triễn.

Trong biến cố mậu thân đồng bào, đồng đạo bị nhiều đau thương, mất mát,
Được chính quyền cứu trợ, được Hội Thánh và Tỉnh Đạo Quảng Tín giúp đỡ, được toàn Đạo Trung Minh đóng góp, Họ Đạo lo tu bổ lại Điện Thờ, Hội Trường, Nhà bếp tạm thời có chỗ tu học và lễ bái.

Thánh Thất Trung Minh đã được thành lập năm năm, toàn đạo có nơi sinh hoạt lễ bái hội học, nhưng trong thâm tâm mỗi người chưa được thỏa nguyện, Thánh Thất Trung Minh là nơi đặt văn phòng Tòa Đại Diện Hội Thánh … Do đó toàn thể chức sắc, chức việc bổn đạo Trung Minh đã quyết tâm xây cất lại Thánh Thất, Được Hội Thánh chấp thuận theo Đạo văn số: 431/HT/NC đề ngày 5-3-1970 nhằm 28-1-Canh Tuất, Họ Đạo tiến hành vận động và bầu ra ban Tạo Tác gồm: Lê Thành Tiến, Nguyễn Thanh Vân, Nguyễn Văn Thôi, Mai Tường, Ngô Trân, Huỳnh Kỉnh…

Với khối chí thành hiến dâng Thượng Đế Chí Tôn , toàn đạo Trung Minh đã thể hiện tinh thần hi sinh cao cả về tâm trí và tài lực.Đứng đầu là Đạo Huynh Gia1o Hữu Thượng Đào Thanh, Lễ Sanh Thượng Tiến Thanh, Nguyễn Văn Thôi, Ngài Trần Hoanh, Ngô Chán Duy, Nguyễn Thanh Vân, Huỳnh Kỉnh, Huỳnh Thanh Hải… một số thương gia và các bậc hảo tâm ngoài đời đóng góp tiền của không ít cho cuộc kiến thiết Thánh Thất.

Ròng rả hơn 9 tháng đã hoàn thành Ngôi Thánh Thất uy nghi tráng lệ có đủ Tam Đài thể hiện Đạo Pháp Đại Đạo.
Toàn đạo Trung Minh phấn khởi vui mừng trong ngày Đại Lễ Khánh Thành được tổ chức long trọng vào ngày 1-6 Tân Hợi Đại Đạo 46 ( 27-7 1971) với sự chứng dự của Anh Lớn Ngọc Phối Sư Chủ Trưởng Hội ThánhTruyền Gia1o, quý anh lớn Lương Vĩnh Thuật, Trần Quang Châu, Trần Luyện …và sự có mặt của ông Quốc Vụ Khanh đặt trách văn hóa, Đại Tá Đô trưởng Sài Gòn, quý dân biểu Nghị sĩ cùng quan khách.

Sau ngày Thánh Thất Trung Minh được tái thiết lại và tổ chức lễ Khánh Thành. Không phụ lòng của toàn Họ Đạo, Ngài Trần Hoanh trở lại tham gia vào Đắc cử Trưởng Ban Cai Quản Thánh Thất Trung Minh
Do nhu cầu hành Đạo ngày 22-2-Nhâm Tý 1972 Hội Thánh thiết lập Thành Đạo Sài Gòn , Ngài Bạch Hổ Trần Quang Châu được cử làm đầu thành Đạo, Văn Phòng Thành Đạo đặt tại Thánh Thất Trung Minh, cùng trong năm này Ngài Trần Hoanh được ủy thác vẽ sơ đồ tổ chức Tòa Tổng Đại Diện Hội Thánh tại Sài Gòn gồm:
-Tổng Đại Diện
-Phụ Tá Tổng Đại Diện
-Chánh Văn Phòng
-Ba Tổng Vụ Trưởng: hành Chánh, Phổ Tế, Phước Thiện.
-Ngài Trần Hoanh được cử làm Tổng Vụ Trưởng Hành CHánh cùng môt lúc gánh vác hai nhiệm vụ nặng nề, Ngài đêm hết tâm lực để hoàn thành trách nhiệm Tòa Tổng Đại Diện giao phó và hoạch định nhiều kế hoạch thực hiện cho Họ Đạo Trung Minh ngày thêm phát triễn và vững mạnnh

Thánh thất Trung Minh chỉ là một đơn vị Thánh Thất như bao nhiêu Thánh Thất khác nhưng lại là nơi đặt Tòa Tổng Đại Diện Hội Thánh. Chính quyền và các chi phái đạo cũng như Tôn Gia1o bạn Miền Nam tìm hiệu về Hội Thánh Truyền Gia1o hay cơ Đạo Miền Trung qua Thánh ThấtTrung Minh là Thánh Thất đầu tiên do tín hữu Miền Trung thành lập tại Miền Nam, do đó đạo sự tại Thánh Thất Trung Minh đều mang sắc thái và thực hiện đúng với lập trường Hội Thánh Truyền Gíao đã có từ trước. từ cách thờ phượng đến nghi lễ cúng kính, từ thuyết đạo đến Hội Nghị, từ nội vụ đến giao tế. Trung Minh đã gây được nhiều ảnh hưởng và cảm tình với cơ Đạo Miền <st1:country-region w:st="on"><st1:place w:st="on">Nam</st1:place></st1:country-region>
<st1:country-region w:st="on"><st1:place w:st="on"></st1:place></st1:country-region>
Vì lý do sức khỏe Đạo Huynh Giáo Hữu Thượng Đào Thanh xin nghĩ chức vụ Đầu Họ Đạo Tại Thánh Thất Trung Minh từ ngày rằm tháng 4 Nhâm Tý 1972. Hội Thánh chấp thuận và bổ nhiệm Đạo Huynh Lễ Sanh Thượng Tiến Thanh đương nhiệm Đầu phòng Văn Thánh Thất làm Đầu Họ Đạo Thánh Thất Trung Minh.

Năm canh Ngọ 1990 Ngài Trần Hoanh xin nghỉ làm Trưởng Ban Cai Quản vì tuổi già, Trải thời gian phục vụ Hội Thánh và qua 30 năm hành đạo tại Thánh Thất Trung Minh với cương vị Trưởng Ban Cai Quản, Ngài Trần Hoanh đã đem hết kinh nghiệm, khả năng của mình để hoạchđịnh kế hoạch xây dựng một Thánh sở huy hoàng, những cơ sở cần thiết cho bổn đạo khi sống có chổ cùng tu, khi chêt có chỗ cùng yên nghĩ. Ngài sắp đặt một nề nếp linh động mới mẻ nhưng có quy cũ, không sai lạc chơn truyền Đạo Pháp, chủ trương hành đạo cố hữu của cơ Đạo Miền Trung về nội vụ cũng như ngoại giao

Ngài chưa từng tham gia một khóa giáo lý nào, tự sưu tầm nghiên cứu và suy ngiệm chân lý nguồn gốc tâm linh của con người để củng cố tín ngưỡng Đạo Cao Đài, để xây dựng cho mình lý tưởng phục vụ nhơn sanh.
Tánh ngài khẳng khái bất khuất, không ỷ lại thần quyền, không mê tín dị đoan, không ham danh vọng, không bè phái, tận trung với tín ngưỡng , không trách trời oán người lấy kết quả chứng minh mạng TRời. Ngài Trần Hoanh không nhận lãnh giáo phẩm nào của Gia1o Hội, nhưng lại nhận lãnh những trách nhiệm quan trọng và hành đạo như một chức sắc cao cấp

Nhận xét về cuộc đời Ngài Trần Hoanh, Ngài Hiệp Lý Trần Nguyên Chất đã tặng 2 câu đối bằng chữ Nho và chứ Quốc Ngữ cho Ngài, Người thứ ký của Đức Tổng Lý Trần Hưng Đạo kiêm thư ký Hiệp Lý luôn sát cánh bên Ngài trong mọi Đạo sự:
“ Hữu chí mạc nan thành, thế thượng khởi ưng lê trệ địa
Vô nhập bất tự đắc, tâm trung ngộ ứng thá bình thiên”
Nghĩa là:
“ Học hạnh thế nên khen, giúp việc cơ quan, thành tích vẻ vang trong sử Đạo
Tu công còn hy vọng, đương cơn thử thách, tinh thần hăng hái giữa thời cơ”
<!--?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:eek:ffice:eek:ffice" /--><o:p></o:p>
Trải năm tháng vào tù ra tội, vừa bươn chải lo cho cuộc sống gia đình lại đêm hết sức mình phụng sự Đạo Trời. sức khỏe lần hồi suy giảm, ngài thường an dưỡng ở nhà và chỉ về Thánh Thất Trung Minh tham dự vào những dịp nghĩ lễ

Tuổi cao sức lực ngày một yếu, Ngài Trần Hoanh trở bịnh rồi quy liễu vào giờ mùi ngày mồng 6-5 Bính Tý lúc 14 giờ 40 ngày thứ sáu 21-6-1996 tại rư gia, hưởng thọ 76 tuổi.
Linh cửu được quàng tại Hội trường Thánh ThấtTrung Minh. Tang lễ Ngài được Họ Đạo và gia đình tổ chức trọng thể, được đông đảo chức sắc bổn đạo tham dự, Ngài Trần Hoanh được an táng tại Nghĩa Trang Trung Minh ở ấp 4, xã Bình Hưng Hòa,Huyện Bình Chánh./

(Kỳ sau HQ sẽ đăng tải tiểu sử Ngài Nguyễn Đán: một hiệp khách giang hồ khét tiếng thông các ngón đỏ đen, võ nghệ các nơi nhưng sau này nhập môn Đạo Cao Đài và trở thành Bậc Hướng Đạo Cốt cán của Cơ Đạo Miền Trung
và Ngài Nguyễn Quang Châu: một Thầy giáo khôi ngô tu theo Đạo Minh Sư Hiệu "Đồng Chơn Tự" thôngt thuộc giáo lý các Tôn Giáo và sau này nhập môn Đạo Cao Đài và cũng trở thành Bậc Hướng Đạo cốt cán của Cơ Đạo Miền Trung)
chúc HTĐM vui vẻ!
 
Sửa lần cuối:

dong tam

New member
Hao quang,

Trong bài viết hôm nay 11g36, có 2 chi tiết cần thẩm định lại:

1. "Họ Đạo Nam Phần tạm thời sinh hoạt lễ bái tại Thánh Thất Từ Vân Phú Nhuận ( thuộc Tòa Thánh Tây Ninh), sau dời qua Thánh Thất Huỳnh Đức Đàn ở đường Nguyễn Thiện Thuật Bàn Cờ."

Từ Vân quận Phú Nhuận ( tỉnh Gia Định) vào thập niên 50 và 60 là Thánh thất độc lập. Qua đầu thãp niên 70 mới giao về Tòa thánh Tây ninh. Sau 1975, Từ Vân lại độc lập.

2. "Trong biến cố Mậu thân đồng bào, đồng đạo bị nhiều đau thương, mất mát, bổn Đạo Trung Minh chịu chung số phận. Thánh Thất bị tàn phá 50%, mười mấy gia đình Đạo Hữu bị cháy nhà và hư hại." (1968)

Lúc đó, tôi có tham gia đi cứu trợ cùng Thanh Niên Hưng Đạo qua Ủy Ban Cao Đài Phổ Tế nhưng không có nghe tin tức nào về Tt Trung Minh bị hư hại bởi chiến tranh. Nếu có thiệt hại thật như thế thì đã phải có trong danh sách các điểm cần cứu trợ. Khi đó, qua những chuyến cứu trợ mới biết anh bác sĩ Nguyễn Ngọc Lan (TN Hưng Đạo), nay đang định cư ở Canada.

HQ kiểm tra lại những thông tin này nhé

Thân
 

Trung ngôn

Active member
Kính Huynh dongtam,
TN xin trao đổi cùng Huynh về thông tin do HQ đưa lên:.
1. Như HQ đã nói, bài viết từ cuốn sách được đưa lên mà chính HQ cũng không dẫn nguồn nên cũng không biết đâu mà dò.
2. Theo TN biết, các bài viết đã đăng ở trên và chuẩn bị đăng là của một tín đồ Cao Đài, có am hiểu khá rộng về Cơ đạo Trung Hưng; tuy nhiên, đến nay thì các đầu sách của vị này vẫn chưa được Hội thánh ban hành (không trình hay chưa trình HT cũng không biết nữa - cười) nên chỉ dừng lại ở mức độ cá nhân.
Nếu là "dân" nghiên cứu thì sẽ nhận ra ngay vấn đề.
Các thông tin trên còn một số hạn chế, số khác chưa được kiểm chứng nên cũng chỉ dừng lại ở góc độ tham khảo.
Các tài liệu được xem là chính thống khi có sự kiểm duyệt của Hiệp thiên đài hay ít ra là Cơ quan Phổ tế và Hội thánh ban hành.
Tuy nhiên, các Đài, cơ quan này vẫn để "lọt lưới" vài đầu sách mà không có sự ban hành của Hội thánh mà Thánh truyền Trung Hưng (5 tập) là một điển hình. Gần đây nhất là tài liệu phục vụ Đại hội nhân sanh lần 4 được đưa ra mà Hội Thánh không hề hay biết!!!
Hy vọng lần sau, các sự cố cơ bản này không lập đi lập lại hoài (cũng như làm toán: 1+1=3 mà cứ đòi làm luận án Tiến sỹ coi bộ kỳ kỳ làm sao, chưa nói đến chuyện kinh bang tế thế).

3. Các bạn trẻ thuộc HTTG khi cần tài liệu tham khảo cũng thận trọng khi sử dụng các thông tin ở dạng này. Chân tình góp ý.
Kính lời.
 

Hao Quang

New member
Kính Huynh DT! Cảm ơn Huynh đã góp ý! Chắc chắn những ý kiến của Huynh sẽ tới tay tác giả cuốn sách nếu như HQ kiếm được Huynh ấy! hì hì<?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:eek:ffice:eek:ffice" /><o:p></o:p>
<o:p></o:p>
Kính Huynh Trung Ngôn! HQ cảm ơn Huynh đã góp ý! nếu như HQ có cuốn tiểu sử được HT duyệt thì quá tốt rồi!<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
HQ không biết cuốn tiểu sử này được HT duyệt hay chưa! Nhưng phải công nhận tác giả sưu tầm rất công phu! HQ đếm tổng cổng có trên 25 sách – tư liệu tham khảo! sách này được Ngài Bạch Hổ Trần Quang Châu đọc qua và cũng có ý muốn giới thiệu cho độc giả gần xa tham khảo! HQ nhấn mạnh: chỉ tham khảo! tác giả vẫn kg quên đề câu: “ chúng tôi xin vui long tiếp nhận những lời chỉ dạy của quý vị để sửa chữa tập sách này hoàn thiện hơn”
<o:p></o:p>
Hq có đọc một đoạn trong một cuốn sách nào đó có nói rằng:<o:p></o:p>
Ngày xưa Đường Tam Tạng đi lấy kinh về giữa đường bị ướt và mất một trang cuối của cuốn kinh! Ngộ Không kiêu ca với Phật Tổ! Phật Tổ bảo: “ Trời đất thiếu nên kinh sách phải thiếu”
<o:p></o:p>
Trời đất thiếu nên cần phải hổ trợ cho nhau bởi theo Dịch Lý thì“ độc dương bất trưởng, cô âm bất sanh” một năng lực không thể hoàn thành Đại Đạo! cho nên mới có câu: “nhứt âm nhứt dương chi vị Đạo (Biến hóa của một âm một dương đối với vạn vật trong đại tự nhiên gọi là Đạo)
<o:p></o:p>
Nên nói về cuốn tiểu sử thì sự thiếu sót là không thể tránh khỏi! nhưng nếu vì một ít thiếu sót mà phủ nhận hoàn toàn những thông tin hữu ích thì rất uổng cũng như một ngón tay bị hoại tử mà đem chặt cả một bàn tay thì thật là đáng tiếc!

à! gần đến ngày giỗ Chư Thánh Tông Đồ (10-7-Tân Mão)rồi! hi vọng tới ngày đó HQ sẽ đăng tải cho THĐM tham khảo thêm
Chúc HTĐM ngủ ngon
 

Trung ngôn

Active member
Cám ơn HQ đã chia sẻ cùng TN về những thiếu sót mà mọi tác giả đều cẩn trọng khi giới thiệu đầu sách của mình.
Vẫn biết "thiếu" cũng là cơ mầu nhiệm của Đạo; song lý do này vẫn không thể bào chữa cho những thiếu sót được xem là cơ bản như làm toán sao cho 1+1=3.
Xưa, trấn thần ngày 15/10 cho ngày Khai minh Đại Đạo, vì một thiếu sót không trấn phương thứ 5 trong ngũ phương mà tà dấy lên để rồi Thầy không biết nói sao, âu cũng là duyên tiền định. Nơi đất Thánh cũng không giữ được pháp môn này cũng là một tiền định.
Xưa, vì lý do nào đó mà Tân luật được lập cũng có nhiều thiếu sót mà đó là cơ mầu nhiệm.
Xưa hơn nữa, khi thỉnh kinh, Ngài Tam Tạng thấy thiếu vài ba trang kinh mà được biết:" Trời đất thiếu nên kinh cũng thiếu".
Nhưng nếu kiểm duyệt rồi mà vẫn thiếu thì mới dùng "lý đương nhiên" để giải thích, nay lấy "lý" này để giải thích công việc chưa làm hết sức thì cũng hơi buồn chút chút - ở đây HQ không phải là tác giả nên cũng chỉ nói giùm họ; TN không biết tác giả nên cũng đóng góp vài lời cho vui (chắc hẳn người này cũng chẳng ưu gì khi nghe đóng góp của Trung Ngôn). Cười. TN có cầu toàn quá không nhỉ??
Chắc cần làm rõ ý Ngài Bạch Hổ "đọc qua và có ý muốn giới thiệu ..." không là sự kiểm duyệt của Hội thánh (Ngài BH mất khá lâu trước khi các đầu sách này chuẩn bị biên soạn lẫn ra đời nên càng cẩn trọng hơn với lời giới thiệu trể này!)
Nhân tiện cũng nói qua việc không thể biện hộ cho việc TTTH chưa ban hành nhưng các nhà lập quy vẫn cứ lấy đó làm căn cứ lập Đạo Quy thì e rằng đáng lo rồi đó HQ ơi ơi ơi !!!
Cơ đạo vẫn cứ chập chùng khi vẫn còn đó cách làm việc "sáng vác cày đi, tối dắt trâu về" (có nghĩa là ngày hôm qua đi cày mà chỉ dắt trâu đi và quên mất cái cày ở nhà, hôm nay mới vác cày ra để cày cùng trâu; đến chiều thì dắt trâu về thì lại quên cái cày ở ngoài ruộng).
Cười ... (chứ biết làm sao).
Kính lời.
 
Sửa lần cuối:
Trạng thái
Không mở trả lời sau này.

Facebook Comment

Top