Lời dạy Đức Cao Đài với các vị tiền bối theo mốc lịch sử

Hao Quang

New member
Vì đọc một cuốn sách hay! Nên chia sẻ cùng HTĐM! tiêu đề: “Lời dạy Đức Cao Đài với các vị tiền bối theo mốc lịch sử” chỉ nhấn mạnh những lời dạy của các Đấng với các vị tiền Khai Đại Đạo lúc sinh tiền! nên về tiểu sử HTĐM có thể sưu tầm thêm! Nếu có gì sai mong HTĐM góp ý!

1- Đức Ngô Minh Chiêu
Ngài ngô sau khi thi đổ! vào ngày 23-3-1899 được bổ nhiệm tại sở Tân Đáo sài gòn! Ngài rước song thân về báo hiếu!
Năm nhâm dần 1902 Ngài lên hầu cho một đàn cơ do Chi Minh Thiện chủ trương ở Thủ Dầu Một để cầu thọ cho Thân Mẫu và để biết việc kiết hung của bản thân! Ngài được TIÊN ÔNG cho một bài kệ như sau:
Thủ bôi vị lễ diệt khả thông
Trung dung hữu đạo thị tâm không
Đắc vọng kỷ thụ giã thân du
Minh phong khả đối giữ thành công
Tạm dịch:
Nâng ly dâng lễ mờ đường thông
Giữ đạo thung dung ấy chữ KHÔNG
Việc lạ thỏa lòng thân tạm gởi
Trăng trong gió mát đón thành công
<?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:eek:ffice:eek:ffice" /><o:p></o:p>
Theo lời kệ tiêng ông khuyên ngài lo tu sau sẽ đắc đạo!
Ngày 1-1-1903 nhằm ngày 3-12 nhâm dần ngài được đổi về làm việc ở Soái Phủ Sài Gòn! Thời gian này ngài cưới vợ
<o:p></o:p>
Ngày 1-5 – 1909 nhằm ngày 12-3 kỷ dậu ngài được đổi đi làm Thư ký ở tòa Bố Tân An! cách sài gòn 45km! ngài mướn 1 ngôi nhà và định cư ở đây! Một sự ngẫu nhiên hay tiền định chổ ở của Ngài rất gần chùa Quan Thánh!
<o:p></o:p>
Ngài có cả thảy 7 người con!
<o:p></o:p>
Năm Đinh Tỵ 1917 Ngài thi đỗ Tri Huyện tại Sài Gòn nhưng ở lại Tân An để chăm sóc mẹ già!
Ngài khuyên các con: “các con có cơm ăn no bụng, áo quần mặc lành ấm thân đủ rồi, hãy ngó xuống đừng ngó lên mà mỏi cổ”
Ngài khuyên vợ: “Huyện mãn nha môn không mãn, Thuyền dời mà bến chẳng dời” ý nói: làm quan không vĩnh viễn, dặn vợ con không nên hãnh diện mà chỉ xem mình như thường dân”
Đối với mẹ già Ngài hết mực chí hiếu
Ngài làm Tri Huyện ở Tân An môt thời gian thì Thân Mẫu Ngài lâm bịnh! Ngài đến đàn Hiệp Minh ở Cái Khế(Ngoại ô châu thành cần thơ) để cầu thuốc cho mẹ! ơn trên bảo Ngài ăn chay thì mẹ ngài hết bịnh và cho một bài trường thiên:
“Lâm nguyên tích thừa ưa
Nữ môn thánh thị đề vừa thiện căn
Sáu mươi hội điểm linh đằng
Cầu cho mẹ mạnh mới bằng lòng con
Ba ngày trong điểm vuông tròn
Sớ dân cho mẹ điểm son tha rày”
Sau đó nghe lời ăn chay và mẹ ngài hết bịnh!
2 năm sau mẹ Ngài lại bịnh Ngài đến Hầu đàn Hiệp Minh lần nữa! Đức Quan Thánh cho bài tứ tuyệt Ý nói vườn thuốc của Phật tổ bị trốc gốc! bà Ngô Thị Nguyệt còn nhớ 2 câu sau:
:
“Tụy thủy huê lưu thiên bán lạc
Hạn Lâm phong đảo hội tiền phi”
<o:p></o:p>
Đến năm 1919 kỷ mùi mẹ Ngài qua đời!
<o:p></o:p>
Qua những lần cầu tiên chữa bịnh cho thân mẫu ngài thấy rõ sự mầu nhiệm của Thiêng Liêng nên lòng tin tưởng Trời Phật của Ngài càng thêm mạnh mẽ. Ngài cùng các ông: Trần Phong Sắc, Đoàn Văn Kim, Lê Kiển Thọ, Nguyễn Văn Vân thành lập nhóm cầu tiên nhằm chữa bệnh cho bá tánh! Trong nhóm chỉ có ông Trần Phong Sắc là ăn chay trường còn lại mỗi ông ăn chay 2 ngày mỗi tháng!
Trong một buổi cầu Tại nhà Ngài một vị Tiên xưng là CAO ĐÀI TIÊN ÔNG! qua đêm sau ông định hỏi lai lịch của ĐỨC CAO ĐÀI thì cơ viết:
“ Cao đài ứng hóa theo lòng chúng sanh
Đố ai biết được cái danh CAO ĐÀI”
<o:p></o:p>
Sau nhiều đau buồn diễn ra trong gia đình, phần xã hội có nhiều thành phần tham nhũng đầy rẫy ngài quyết định chuyển ra Hà Tiên! trước khi đi Ngài Nói với cô Nguyệt khi ấy mới 15-16 tuổi: “Cha đổi đi Hà Tiên là xứ quạnh hiu như người đi đày”
“anh hùng lâm nạn vô phiền nại
Dũ Lý Văn Vương bất thảm sầu”
“ các con ở lại với mẹ, cha không đem các con theo là cha sợ làm quan đâu có dư giả, còn đem đi theo thì không đủ sức để mẹ con sung sướng, nếu cha dắt đi thì chi cho khỏi động lòng thương xót, dù của hối lộ cho mẹ con thì cái tội cha phải kêu bằng ăn chung mà tội riêng, nên cha mới để mẹ con ở lại Tân An, nếu có ai ăn hiếp thì có quan Chủ Tỉnh can thiệp, còn phần cha thì lo trả nợ nước cho rồi”
<o:p></o:p>
Ngày 1-3-1920 nhằm ngày 11-1 Canh Thân Ngài đến Hà Tiên! Ngài thường lên núi Thạch Động cầu tiên! có một vị tiên cô xưng là Ngô Kim Liên cho bài thi khuyên Ngài ráng tu hành:
“ văng vẳng nhạn kêu bạn giữa thu
Rằng Trời rằng Đất vẫn xa mù
Non Tây ngoảnh lại đường gai góc
Gắng chí lo thành bậc trượng phu”
“ngần ngần trăng tỏ giữa trời thu
Cái cảnh Tây Phương vẫn mịt mù
Mắt tục nào ai trông thấy đấy
Lắm công trình mới đúng công phu”
<o:p></o:p>
ở Hà tiên ít lâu, một hôm có thư người bạn ở Phú Quốc là ông Đốc Phủ Đẩu, nội dung không nói rõ. Song ngài xin thiết lập đàn cơ tại nhà ông Lâm Tấn Đức có ông Nguyễn Thanh Diêu, Đốc Phủ Cao Văn Sự, Ông Lâm Tấn Đức làm Đồng tử:
TIÊN ÔNG xưng là CAO ĐÀI cho bài thi:
“ Cao Đài minh nguyệt Ngô Văn Chiêu
Linh lung vạn hộc thể quang DIÊU
Vô thậm Sự Đức nhiệm ngao du
Bích thủy thanh sơn tương đối chiếu”
<o:p></o:p>
CHIÊU, DIÊU, SỰ, ĐỨC là tên các vị hầu đàn hôm ấy! các vị không biết ý gì! Nhưng ngài thì biết mình có thể đi Phú Quốc được!
<o:p></o:p>
Ngày 26-10-1920 (15-9 canh thân) Ngài được lệnh ra trấn nhậm Phú Quốc!cảnh trời nước mênh mông, núi non tịnh mịch một khung cảnh rất cần thiết cho sự học Đạo của Ngài! Lý màu nhiệm đức Cao Đài chuyển ngài ra đây nhằm mục đích ấy!
Ngài không học đạo thầy phàm tục vì những người thầy này không thực hiện được đạo lý như ngài đã nhận biết! Ngài quyết tìm Thầy tiên để Học Đạo
<o:p></o:p>
Một hôm Đức Cao Đài bảo ngài lo tu và ăn chay 10 ngày! Nhưng thời đó ăn chay 10 ngày rất khó khăn! Ngài vẫn giữ 2 ngày trong tháng
Không lâu sao tại đàn cơ ở Quan Âm Tự tiên ông dạy Ngài “ Chiêu tam niên trường trai”
Ngài lấy làm bối rối 10 ngày chưa xong nay Tiên ông dạy phải ăn trường trong 3 năm Ngài bèn Bạch “ bạch Tiên ông, Tiên ông đã dạy thì đệ tử phải vâng, song xin tiên ông bảo hộ đệ tử, chớ trường trai ba năm lâu quá không biết đệ tử có chịu nổi không và xin tiên ông bảo lãnh, nếu đệ tử vâng theo lời dạy thì phải có chứng quả chi mới được”
Tiên Ông bảo cứ theo lời dặn sẽ rõ!
<o:p></o:p>
Ngài Ngô thọ giáo Tiên Ông khởi sự trường trai học Đạo kể từ ngày mồng một tháng giêng năm Tân Dậu ( thứ ba ngày 8-2-1921) theo TÂM PHÁP BÍ TRUYỀN và Tiên ông căn dặn phải giữ kín bí truyền chừng nào tới thời kỳ KHAI ĐẠO thì tiên ông sẽ dạy!
<o:p></o:p>
Ngài ăn chay, luyện đạo nhưng cách thờ phượng thì chưa dạy! một hôm tiên ông bảo Ngài phải nghĩ ra biểu tượng gì để thờ! Ngài nghĩ ra chữ Thập! Tiên Ong bảo: đó là dấu hiệu riêng của một tôn giáo đã có từ lâu! Phải suy nghĩ cho ra Tiên ông sẽ giúp sức!
Ngày 14-3 Tân Dậu 1921 Ngài nằm trên võng phái sau Dinh Quận đường Phú Quốc Ngài thấy con mắt hiện ra sáng chói! Ngài bịt mắt lại và nguyện: “ ….Tiên ông bảo phải thờ vậy thì cho biến mất tức thì” lập tức con mắt biến mất! hôm sau ngài lại thấy lần nữa và Nguyện lần nữa và con mắt biến mất!
Từ đó Ngài bạch Tiên ông cho tạc thiên nhãn để thờ!
<o:p></o:p>
Sự tích thiên nhãn trong đạo cao đài phát nguyện từ đây 1921 nhưng không ai biết rõ tại sao như vậy. Buổi sinh tiền Đức Ngô dạy đệ tử Ngài như sau Nguyên văn:
“ sách nói Tâm thị Nhãn: Thân thể con người có Tâm làm gốc, Tâm là chủ con người, thế người đời kêu là lòng chớ kỳ thực là Tâm”
“tại sao vẽ có một con mắt: mỗi người có một Tâm nên bề ngoài vẽ có một con mắt mà thôi. Hễ mình thấy con mắt đó như thấy Tâm mình, mà hễ người nào hay thấy cái Tâm mình thì mới biết nó ra sao mà kiềm chế,chữa trị cho nó hoàn toàn, hễ người được hoàn toàn thì xa dữ gần lành, gọi là người hiền đức”
“người ta thường nói: tu cho thấy lòng là thấy phật.”
Trời phật không có mắt, hằng xem xét việc tội lỗi của chúng sanh. Vậy mình phải ráng mà giữ mình”
“đức Cao Đài giáng thế truyền Vô Vi Đại Đạo, Ngài muốn cho môn đệ Ngài hiểu ý nên dạy vẽ Thánh Nhãn mà thờ, không dùng hình sắc có tướng.
“Tâm của mình nếu ở nơi tay thì muốn đánh muốn đập, ở chân thì muốn đá muốn đạp, ở miệng thì muốn nói, muốn la, ở nơi khác thì sinh ra nhiều việc khác”
Khi đọc kinh phải ngó Thánh Nhãn, ấy là mình kiềm cái Tâm không cho vọng động xao lãng, Hễ Tâm vọng trí loãn như nhà không chủ, cầu chi không ai chứng”
“con mắt bên mặt là âm, bên trái là Dương,Dương là trời, Âm là đất, nên mình phải vẽ con mắt bên trái”
……….
(Còn tiếp)
 

Hao Quang

New member
Ngày 13-1-bính dần(thứ năm 25-2-1926) một đàn cơ dạy về phần phổ độ Đức Cao Đài dạy như sau: chưa phải hồi các con biết đặng tại sao vẽ Thiên Nhã mà thờ Thầy, song Thầy nói sơ lượt để các con hiểu chút đỉnh:
“ Nhãn Thị chủ tâm
Lưỡng qua chủ tể
Quan thị thần
Thần thị thiên
Thiên giã ngã giã”
“Thần là khiếm khuyết cơ màu nhiệm, từ ngày Đạo bế lập Tam Kỳ Phổ Độ duy Thầy cho Thần hiệp Tinh Khí đặng đủ Tam Bửu làm cơ màu nhiệm siêu phàm nhập thánh”
“Từ ngày bế Đạo thì luật lệ hãy còn nguyên luyện pháp chẳng đổi, song Thiên Đình nhiều phen đánh tản Thần không cho hiệp cùng Tinh Khí, Thầy đến đặng hoàn nguyên chơn Thần cho các con Đắc Đạo”
“con hiểu: Thần cư tại nhãn”bố trí cho chư đạo hữu con hiễu rõ nguồn cội tiên phật yếu nhiệm là tại đó. Thầy khuyên con mỗi phen nói Đạo hằng nhớ danh Thầy”
<?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:eek:ffice:eek:ffice" /><o:p></o:p>
Một đàn cơ tại Quan Âm Tự Tiên Ong dạy vẽ hình con mắt y như đã thấy mà thờ lúc bấy giờ TIÊN ÔNG mới xưng danh hiệu là: NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT” và dạy Ngài Ngô phải kêu TIÊN ÔNG bằng THẦY mà thôi!
<o:p></o:p>
Như vậy Đạo Cao Đài xuất hiện từ đầu năm canh thân 1920 tại Tân An Hà Tiên và hiễn hiện rõ vào đầu năm Tân Dậu 1921 tại Phú Quốc!
Như vậy Ngài Ngô là Đệ tử đầu tiên mà Đức Cao Đài khải thị và truyền Tâm Pháp
Điều đặc biệt là Đức Cao Đài chỉ độ có một mình Ngài chứ không độ nhiều người cùng một lúc! Ta đủ thấy địa vị của Ngài trong Đạo Cao Đài không thể so sánh vớ một ai khác!

khi biết mùi Đạo trong lòng thêm phấn khởi và Ngài Nguyện với Đức Cao Đài rằng: “ nếu đức Cao Đài độ cho tôi thành Đạo thì tôi sẽ lo độ lại chúng sanh tùy theo phước đức của mỗi người”
<o:p></o:p>
sau ba năm tu học 1921-1923 Đức Cao Đài dạy Ngài như sau:
“ba năm lao khổ độ nhứt nhơn
Mắt Thầy xem rõ lòng dạ chắc
Thương vì con trẻ hãy còn thơ
Gắng chí tầm phương biết Đạo mầu”

Tiên ông thường khen ngài: tu kỹ, đạo phát, lắm công phu” cũng thời gian này Đức Thượng Đế cho ngài thấy cảnh bồng lai tiên cảnh
Sau bốn năm xa vợ con, học đạo tại Phú Quốc Ngài được lịnh chuyển về soái phủ Sài Gòn
Ngày 30-7-1924 Ngài về tới Sài Gòn! Trước khi rờiPhú Quốc ơn trên cho Ngài Bài thi như sau:

“kín ngoài rồi lại kín trong
Đường xa phong cảnh thưởng lòng để vui
Công đầu chịu cực đừng lui
Thiên tào khen thưởng đạo mùi ngọt ngon
Ba năm lòng sáng như son
Trèo non xuống biển vuông tròn công phu
Chớ phiền mỏi mệt lòng tu
Trăng kia mây vẹt đường ngu gặp hiền
Mưu toan vụ thấy thanh thiên
Các đào rõ biết mối truyền chánh tông
Giờ này Thầy điểm thâm công<o:p></o:p>
Ngày sau con sẽ cởi rồng về nguyên<o:p></o:p>
Ngoài trong sạch tợ bạch liên
Khá lòng gìn giữ mối giềng chớ sao
Chiêu chiêu nguyện thấu thanh thao
Trên đầu cũng có Thiên Tào xét xem
Thấm mùi con biết lân men
Đề hồ con uống Thầy xem ân cần
Đạo luyện khắc kỷ phục thân
Chiêu con khá giữ Thầy phân cạn lời”
Theo bài thơ trên Ngài Ngô đã đạt đạo nhiệm màu của Đức Cao Đài. Ngài về lại sài gòn mang theo sứ mạng truyền bá Đạo trời trong KHAI CƠ GIÁO PHÁP là một diệu dụng của vô hình
<o:p></o:p>
Khi về Sài Gòn Ngài không sống chung với vợ con nữa! nhưng tiền lương hàng tháng Ngài vẫn gởi về cho vợ con trang trải việc gia đình! Nơi ngài ở có nhiều bạn đạo thường xuyên lui tới!
<o:p></o:p>
Cuối năm 1925 Đức Thượng Đế mới dạy Ngài Ngô đem mối Đạo truyền ra.
Ngài gặp trước hết là Ngài Quan Phủ Vương Quan Kỳ là bạn đồng song tâm đầu ý hiệp, Ngài khuyên ông Vương Quan Kỳ lo tu tâm dưỡng tánh và thờ Đức Cao Đài! Và Ngài Ngô độ được 4 vị:
Ông Vương Quan Kỳ, ông Võ Văn Hoài, ông Phán Võ Văn Sang, ông đốc học Đoàn Văn Bản.
Và Ngài Vương Quan Kỳ cũng khuyên nhiều người vào Đạo như: Nguyễn Thành Cương, Nguyễn Thành Diêu, Nguyễn Văn Tý, Nguyễn Hữu Đắc,Lê Văn Bảy, Võ Văn Mân, Âu Kiết Lâm.
<o:p></o:p>
Vào tháng 6 năm Ất sửu 1925, một nhóm thư ký công sở là Ngài Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang cũng hay xây bàn cầu hồn người chết về xướng họa ngâm thơ nhưng cũng có nhiều vị từ Thiên Liêng nhập cơ để xướng họa trong đó có Thất Nương (Vương Thị Lễ) và một Đấng xưng là A Ă Â nhập bàn thi họa và khuyến tu!
<o:p></o:p>
Một hôm Đức A Ă Â giáng cơ dạy đạo và phán với ba người rằng: “ muốn được ta tận tâm truyền Đạo phải gọi Ta bằng Thầy cho tiện bề đối đãi” ngược lại Đức A, Ă, Â gọi các ngài là các con
<o:p></o:p>
Đêm giáng sinh thứ năm ngày 24-12-1925 nhắm ngày 9-11-ất sửu tại nhà Cao Quỳnh Cư số N134 đường Bourdais Sai Gon. Thât nương giáng cơ dạy phải chỉnh đốn nghiêm trang hầu tiếp giá. Nghe vậy các Ngài Cư, Tắc, Sang nữ mừng, nữa sợ lật đật sắm hương đèn hoa quả chỉnh đàn, đoạn Ngài Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, mới ngồi lại chấp cơ thì cơ viết: “ NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI giáo đạo <?xml:namespace prefix = st1 ns = "urn:schemas-microsoft-com:eek:ffice:smarttags" /><st1:country-region w:st="on"><st1:place w:st="on">Nam</st1:place></st1:country-region> Phương”<o:p></o:p>
“Muôn kiếp có ta nắm chủ quyền
Vui lòng tu niệm hưởng Ân Thiêng
Đạo màu rưới khắp nơi trần thế
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn bền”
<o:p></o:p>
“đêm nay phải vui mừng vì là ngày ta xuống trần dạy Đạo bên Thái Tây Ta rất vui lòng mà đặng thấy chư đệ tử kính mến ta như vậy. Nhà này sẽ đầy ơn ta, ta sẽ làm cho thấy huyền diệu đặng kính mến ta hơn nữa. Bấy lâu Thầy vẫn ta danh A Ă Â cốt là để dìu dắt các con vào đường đạo đức hầu chẳng bao lâu đây các con phải ta giúp Thầy mà KHAI ĐẠO. Các con có thấy Thầy khiêm nhượng là dường nào chưa?? Các con phải bắt chước Thầy trong mảy múng thì mới xứng đáng là người có đạo đức”
<o:p></o:p>
Ngài Ngô lúc về Sài Gòn Ngài lo tu tịnh ít giao thiệp với ai!
<o:p></o:p>
Một hôm vào tháng chạp năm Ât sửu có Ngài Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, Nguyễn Trung Hậu, Cao Hữu Đức …vâng lệnh đức Cao Đài tìm đến Ngài Ngô để hỏi cách thờ phượng, và chung lo mở Đạo.
<o:p></o:p>
Đức Cao Đài dạy rằng: “ mỗi mỗi phải do nơi Chiêu làm anh cả”<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
lúc này trong hàng môn đệ đức Cao Đài cả 2 nơi họp lại gồm có:
NGÔ MINH CHIÊU, <o:p></o:p>
VƯƠNG QUAN KỲ,
VÕ VĂN SANG,
LÊ VĂN TRUNG,
LÝ TRỌNG QUÝ,
PHẠM CÔNG TẮC
NGUYỄN TRUNG HẬU
ĐOÀN VĂN BẢN
LÊ VĂN GIẢNG
CAO QUỲNH CƯ
CAO HOÀI SANG
TRƯƠNG HỮU ĐỨC
Sự gặp gỡ diễn ra trong bầu không khí vô cùng hoan hỉ, và thông cảm
<o:p></o:p>
Theo lệnh đức Cao đài đêm 30 tháng chạp năm ất sửu(12-2-1926) Ngài NgÔ đi với các ngài trên đến từng nhà các vị để chúc xuân
<o:p></o:p>
Cũng đêm giao thừa bính dần này sau khi đi các nơi trở về nhà Ngài Lê Văn Trung tái cầu đức Thượng Đế Gia1ng dạy rằng:
“ chư đệ tử nghe:

CHIÊU buổi trước hứa lời truyền Đạo để cứu vớt chúng sanh, nay phải y lời mà dìu dắt môn đệ ta vào đường đạo đức đến buổi chúng nó lập thành chẳng nên thối thác, phải thay mặt cho ta mà dạy dỗ chúng nó”
TRUNG, KỲ, HOÀI, ba con phải lo thay mặt CHIÊU mà đi độ người, nghe và tuân theo”
BẢN, SANG, GIẢNG, QUÝ, lo dọn mình đạo đức đặng truyền bá cho chúng sinh,nghe mà tuân theo”
ĐẮC con phải hợp một vào đây mà giúp đữ TRUNG, nghe và tuân theo” (ông ĐẮC bạch Thầy:mắc lo vuông tròn Hội Minh Lý)
“cũng một GỐC tùy ý con định sau chớ trách Thầy”
ĐỨC tập cơ, HẬU tập cơ, sau theo mấy anh đặng độ người, nghe và tuân theo ( ĐẠI ĐẠO CĂN NGUYÊN của Nguyễn Trung Hậu)
<o:p></o:p>
Trên đây là nguyên văn Thánh Lệnh phân công đầu tiên làm văn kiện căn bản Khai Đạo vào giờ Tý mùng 1-1 Bính Dần( thứ bảy 13-2-1926)
<o:p></o:p>
Đến mùng 9-1-Bính Dần (21-2-1926) Ngày Thánh Đán Đức Chí Tôn Ngài Vương Quang kỳ thiết đàn tại nhà đêm ấy có đủ môn đệ và các vị đạo hữu thân cận hầu đàn
<o:p></o:p>
Đức Thượng Đế dạy:
“Bửu tòa thơ thới trổ thêm hoa<o:p></o:p>
Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà<o:p></o:p>
Chung hiệp rán vun nền đạo đức<o:p></o:p>
Bền lòng son sắt đến cùng Ta”<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
“cái nhánh các con là nhánh chính mình Thầy làm chủ sau các con sẽ hiểu, Thầy vui vì muốn các con thuận hòa nhau ấy là lễ hiến cho Thầy rất trọng, phải chung lo Danh Đạo Thầy. Đạo Thầy tức là các con, các con tức là Thầy. Phải làm cho nhau đặng thế lực đừng ghanh ghỗ nghe, các con giữ phận làm tùy ý Thầy muốn. Ngày kia sẽ rõ ý muốn của Thầy”<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
Ngài Ngô bạch đức Chí Tôn lấy tên mấy người môn đệ hiện diện cho một bài thi để làm kỷ niệm:
CHIÊU KỲ TRUNG độ dẫn HOÀI sanh
BẢN đạo khai SANG QUÝ giảng thành
HẬU ĐỨC TẮC CƯ thiên địa cảnh
QUỜN MINH MÂN đáo thủ đài danh
<o:p></o:p>
Thượng đế lại phán: QUỜN, MINH, MÂN sau sẽ rõ
<o:p></o:p>
(còn tiếp)
<o:p></o:p>
 

Hao Quang

New member
Vì Ngài Ngô không thể đi lại được nên Đức Thượng Đế mới dạy: “ TRUNG, KỲ, HOÀI phải lo thay mặt CHIÊU mà đi độ người người” và mỗi tối thứ 7 Ngài Ngô thiết tiệc chay tại nhà để đãi các vị ấy đã thay mặt Ngài mà đi truyền Đạo! Ngài Ngô còn xuất tiền sắm đạo phục cho các Ngài đi hành đạo, còn Ngài lo tịnh dưỡng tinh thần, gắng chí công phu tu luyện chớ không thể đi phổ độ được!
<?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:eek:ffice:eek:ffice" /><o:p></o:p>
Cũng trong thời gian này tức vào ngày 20-1 năm Bính Dần, Đạo Minh Đường ở Vĩnh Nguyên Tự quy hiệp Cao Đài, chỉ sau một lần hầu lịnh Ơn Trên, ngài Lê Văn Lịch Người tiếp nối đạo nghiệp của thân phụ là ngài Lê Văn Tiểng tức Thái Lão Sư Lê Đạo Long đạo Minh Đường tại Vĩnh Nguyên Tự, (28-02-BD) đã thượng tượng Thiên nhãn thờ Đức Cao Đài Thượng Đế!
<o:p></o:p>
Và đến Tháng 3 – Bính Dần đợt Thiên Phong đầu tiên của Đạo Cao Đài diễn ra:

Xin trích một đoạn tại http://www.nhipcaugiaoly.com/

<o:p></o:p>Đợt Thiên phong chức sắc lần đầu tiên đã diễn ra vào tháng 3 Bính Dần:
a. Để chuẩn bị cho ngày trọng đại ấy, Thiên phục là một trong những thứ phải được chuẩn bị. Vào cuối tháng 2 Bính Dần, Thầy dạy:
"Trung, nội rằm tháng tới đây con phải nhóm đại hội. Đòi luôn phái Ngọc, Phái Ngọc đây là Ngài Lê Văn Lịch Sau khi Ông Trung khai đàn cho ông Lịch theo lệnh của Thầy vào ngày 28 tháng 2 Bính Dần 1926, Đức Chí Tôn ban cho ông Lịch: <o:p></o:p>
<o:p></o:p>
"Đầu Sư phái Ngọc hiệp quần Nho, <o:p></o:p>
Tam Giáo quy nguyên dẫn ngã đồ…" (Lịch Sử đạo Cao Đài, quyển 1, trang 225, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo.)đến đặng thọ phong Thiên tước nghe.

Còn thiếu thảo hài. Sắm cho đủ nghe Hiếu, chịu cực may bộ hồng y Thiên phục nữa cho kịp ngày rằm nghe." Đạo Sử Xây Bàn, quyển 1, bản in ronéo trang 106. Trước đó, Đức Chí Tôn đã dạy bà Hương Hiếu may bộ Thiên phục màu xanh da trời cho ông Lê Văn Trung.

b. Đầu tháng 3 Bính Dần (Avril 1926): Đức Chí Tôn dạy may Thiên phục Giáo Tông cho ông Ngô Văn Chiêu.
"Trung, Cư, Tắc, ba con lập tức lên Chiêu, biểu nó phải sắm sửa liền một bô Thiên Phục màu trắng…
(…) Hiếu lại phải nhọc công nữa. Thầy giao phần may sắm cho con. Con liệu cho kịp. Rằm phải có nghe con.(…)" Đạo Sử Xây Bàn quyển 1, bản in ronéo trang 106.

c. Trong các ngày từ 11 đến 14 tháng 3, Đức Chí Tôn đã dạy chi tiết về nghi thức cho buổi lễ Thiên Phong. Qua đó chúng ta được thấy vai trò quan trọng của hai vị Đầu Sư Lê Văn Trung và Lê Văn Lịch cũng như vai trò quan trọng nổi bật của Hộ Pháp Phạm Công Tắc trong cơ phổ độ. Đây là ba vị được ngự trên ngai của mình trong khi tiến hành nghi thức bái mạng.

d. Vào đêm 14 rạng rằm tháng 3: Trong buổi Thiên phong, Thầy tiếp tục phong thêm:
"Đức, Hậu, phong vi Tiên Đạo Phò Cơ Đạo Sĩ.
Cư, phong vi Tá Cơ Tiên Hạt Đạo Sĩ.
Tắc, phong vi Hộ Giá Tiên Đồng Tá Cơ Đạo Sĩ.
Trung, Lịch, đã thọ sắc, cứ tước vị mà theo lịnh sắc mạng Ta.
Kỳ, phong vi Tiên Sắc Lang Quân Nhậm Thuyết Đạo Giáo Sư.
Bản, phong vi Tiên Đạo Công Thần Thuyết Đạo Sư ."

Nếu so sánh danh sách này với danh sách trong bài thơ tứ tuyệt của Đức Chí Tôn điểm danh các đệ tử ban đầu, chúng ta thấy:
- Có thêm Ngài Lê Văn Lịch.
- Đợt đầu tiên này có 8 vị được Thiên phong. Gồm 4 vị về sau là chức sắc Cửu Trùng Đài (2 Đầu Sư: Trung và Lịch; 1 Giáo Sư: Kỳ, 1 Giáo Hữu: Bản) và 4 vị Đồng Tử phò cơ (Tắc, Cư, Hậu, Đức) về sau là chức sắc Hiệp Thiên Đài. Hình ảnh và con số của mỗi bên cũng gợi ý cho chúng ta sự tàng ẩn của định luật cân bằng âm dương.

- Việc Thiên phong cho các vị (Trung, Lịch, Tắc) thể hiện nguyên lý của Đạo: Nếu như Ngài Ngô là người đệ tử đầu tiên được thấy Thiên Nhãn (tượng trưng cho Thái Cực) thì 2 vị Đầu Sư đầu tiên được Thiên phong: Trung Nhựt và Lịch Nguyệt tượng trưng cho âm dương, kế đến Hộ Pháp mang ý nghĩa pháp đạo chuyển vận. Về sau, Đức Đông Phương có giải thích ý này khi nhắc lại sự kiện Thiên phong lần đầu:

"Bần Đạo giải thích về đạo số cho chư hiền được rõ:
Ngày 13 tháng 3, Tiền Khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Chí Tôn đã chọn ngày ấy phong Thánh cho tam vị Đại Thiên Phong Chức Sắc đầu tiên. Đó là Thượng Trung Nhựt Lê Văn Trung, Ngọc Lịch Nguyệt Lê Văn Lịch, Hộ Pháp Phạm Công Tắc.(…). Ngô Văn Chiêu là một anh cả trong Thập Nhị Tông Đồ đầu tiên. Ngô Văn Chiêu đã kiến nhận và tiếp lãnh dấu hiệu Thiên Nhãn.
Nói về lý số Thiên Nhãn là con số 1, tượng trưng cho Ngôi Thái Cực. Kế đến lập thành lưỡng nghi nơi Vĩnh Nguyên Tự. Đó là Nhựt Nguyệt Âm Dương.
Từ Thái Cực biến Lưỡng Nghi trở thành cái Pháp sanh hóa muôn loài vạn vật mà cái Pháp ấy Hộ Pháp đã tượng trưng." Đức Đông Phương Chưởng Quản, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 20.02 Quí Sửu (24.03.1973)


<o:p></o:p>
Sau đàn cơ đêm giao thừa , ta thấy mấy bài giáng cơ thên của Đức Thượng Đế đã phân công: phần lo TÂM TRUYỀN VÀ phần lo PHỔ ĐỘ!
Có một chi tiết là Ngài Ngô xin khước phẩm vị Giáo Tông! Một phẩm vị được xem tôn vinh nhất trong Đạo ! từ chối chức Gia1o Tông nhưng Ngài cũng xuất tiền trả tiềng công bộ áo mão do bà Hương HIếu may.
<o:p></o:p>
(Xin nêu chút suy nghĩ riêng: từ lúc Ngài Ngô gặp Đức Cao Đài một cách rất riêng tư, âm thầm, lặng lẽ! cũng như chúa giesu sinh trong một động đá ở Bê Lem! Ngài thọ truyền Tâm Pháp từ Đức Cao Đài! Một pháp tu cần sự yên tịnh! Ngài phải chuyển ra Hà Tiên, phú quốc một phong cảnh Hữu tình, xa rời Trần tục sau bố năm tu luyện trước khi về lại sài gòn đức Cao Đài có cho Bài Thi: “kín ngoài rồi lại kín trong, đường xa phong cảnh thưởng lòng để vui…” nhưng trong đêm Thiên Phong Thầy lại Phong cho Ngài chức Giáo Tông! Một chức cao trọng trong Cao Đài! thường thấy thì khi một người được phong thưởng thì sẽ vui mừng bởi công sức của mình được ghi nhận! càng vui mừng khi đó là chức Thiên Phong do chính Thầy Thượng Đế phong thưởng nhưng Ngài lại từ chối! Vậy có gì ẩn ý ở đây không nhỉ?? hoặc ngài nhận thấy công đức của Ngài chưa đủ để nhận sự phong thưởng của Thầy?? hoặc Ngài đã vâng lệnh Thầy nhắt nhở trước khi rời Phú Quốc: “kin ngoài rồi lại kín trong” nên không nhận chức Giao tông?? Và phải chăng sự ứng ngiệp của câu thi “ giờ này Thầy điểm thâm công, Ngày sau con sẽ cởi rồng về Nguyên” khi Ngài đăng tiên trên sông Tiền là câu trả lời chính xác nhất?? )
<o:p></o:p>
Sau khi không nhận chức Gia1o Tông Ngài rút về an phần tu luyện vào thời gian Ngài rút về tu luyện ơn trên có dạy: “ Thầy nhất định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao chánh giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà buộc phải lập Chánh Thể, có lớn nhỏ đặng để cho các con dìu dắt lẫn nhau anh trước em sau mà đến nơi bồng đảo. Vì vậy Thầy mới lập ra Phẩm Giáo Tông tức là Anh Cả, ba phẩm đầu sư nghĩa là Giao hữu. Chẳng một ai dưới thế này còn đặng phép nói rằng thế quyền cho Thầy mà trị phần hồn của nhơn loại. AI có đức hạnh lớn thì mới ngồi đặng địa vị của Thầy ban thưởng. Còn cà môn đệ ai cũng như ai không đặng gây phe lập đảng, những kẻ nào phạm tội thì Thầy trục xuất ra ngoài cho khỏi điều rối loạn:” (TNHT quyển 1 trang 18. TTTNxuất bản 1969)
<o:p></o:p>
Vào ngày 13-3 Bính Dần(Thứ bảy ngày 24-6-1926) Ngài Ngô rút về lập phần Vô Vi an phần tu luyện!
<o:p></o:p>
Ngày 18-5 Bính Dần (27-6-1926) đức Thượng đế giáng cơ tại Chiếu Minh Đàn Cần Thơ khuyên Ngài như vầy:
“Chiêu nghe Thầy Phân: “ tại lời Nguyện của con khi trước, nay Thầy đã hứa cho con ngồi yên tịnh đặng Thầy dìu dắt con Theo Thầy, nhưng con phải độ cả chúng sanh cho kịp Hội Long Hoa. Thầy cho con một bài thi, con coi theo đó mà làm:
<o:p></o:p>
Chiêu an bá tánh khả hồi tâm
Nghi thưc thiên cơ đạo dị tầm
Độ thế giai do công mẫn cán
Môn thành duy hữu đức hoằng thâm
Sanh phùng ĐẠO ĐẠO tu cần bộ
Chí ngộ chơn truyền khả tốc lâm
Long hổ tùng vân cu đẳng hôi
Hoa khai hựu nhựt báo giai âm.
<o:p></o:p>
Vì lời dạy của Thầy nên Ngài ít giao thiệp với mọi người quyết chí lo tu, Ngài thường dạy các đệ tử rằng: “ lời thánh ngôn ngày trước dạy bảo: chẳng nên đến chỗ đông người, phận sự phải ở nơi khuất tịch vắng vẻ cho nhàn thân, ấy là Đạo vô vi tức là vô hình”
Đức Thượng Đế dạy Ngài rằng:
“Ngày cơm hai bữa cho tinh
Sớm lo việc nước chiều trình công phu”
Một điều lạ là Ngài ít chịu nằm, cứ ngồi ròng rã hết năm này sang năm khác, khi ngủ cũng ngồi mà ngủ, cho đến khi liễu Đạo cũng ngồi.
Ngày 22-2- Nhâm Thân(30-3-1932) Ngài đi dạo núi Trà Lơn sau về Cần Tơ dưỡng bịnh, Ngài không chịu ở nhà ai hết, nên đệ tử cất cho Ngài một cái am cách Châu Thành Cần Thơ khoản 03km, ngang với Chiếu Minh Nghĩa Địa ( nay là Tổ Đình Chiếu Minh Tam Thanh) Ngài dạy đệ tử chỉ làm bằng cây lá vì không ở lâu.
Các đệ tử của Ngài cầu cơ hỏi thăm Đức Thượng Đế giáng cơ nói: “xác phàm cư tại thử xứ, còn linh hồn viễn du tứ châu phổ hóa”
<o:p></o:p>
Ngày 12-3 Nhâm Thân 1932 đức Văn Xương Tế Quân giáng cho bài thi:
Chung quy rồi nợ ấy tiêu diêu
Đủ đức hạc đưa giữa nhạc thiều
Phơi phới gót sen lên chín bực
Vui miền thanh nhã trí phong phiêu”
<o:p></o:p>
Ngài ở lại Cần Thơ 8 ngày và sắp đặt việc như sau:
<o:p></o:p>
Việc bày biện, trần thiết trên bàn thờ phải giữ y nguyên không nên canh cải.sau này có xảy ra điều chi ngài sẽ bố hóa cho biết. Ngài nói với bà Hội Đồng Thơm rằng thiết bàn thờ như thế là tượng hình Lục Phủ Ngũ Tạng của mình, Thờ Thầy tức thờ mình chứ không phải ai khác….
Giờ Ngọ này 13 Ngài triệu tập tất cả đệ tử hiện diện sắp đặt việc công phu tại Thảo lư.
Sau khi sắp đặt mọi việc xong cô Nguyệt con Ngài mới hỏi: “ cha về Tân An phải không?? Ngài cười bảo: “cha đi bí mật”
<o:p></o:p>
Khi đến bến đò Mỹ Thuận mặt Ngài chuyển sang màu vàng khi đò rời bến vài phút thì Ngài xuất hồn ra đi nhẹ nhàng trong khi vẫn đang ngồi kiết già vào lúc 3 giờ chiều ngày thứ 2 ngày 18-4-1932 nhằm giờ mùi ngày 13-3 Nhâm Thân lúc 54 tuổi ứng với câu thi:
Giờ này Thầy điểm Thâm công
Ngày sau con sẽ cởi rồng về nguyên”
Sau kh ngài quy tiên các đệ tử mới tìm thấy phong thư của Ngài để dưới thảo lư:
thôi các em nhứt tâm<o:p></o:p>
“Thầy chẳng quên ta, ta hằng tại<o:p></o:p>
“chẳng đặng nhiều lời”<o:p></o:p>
Kính tạ<o:p></o:p>
Bần Đạo CHIÊU(22-8-1931)”<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
Giờ Ngọ ngày 15-3 Nhâm Thân chư đệ tử cầu cơ Bạch Hạc Đồng tử giáng:
“bạch hạc ngự lâm chỉ các nơi
Hạc khuyên chư sĩ khá ghi lời
Đồng tâm thiện niệm gìn noi dấu
Tử đệ khá xem chớ đổi dời”
<o:p></o:p>
Chiếu coi thế giới để làm gương
Ghi nhớ huấn ngôn tiếng tận tường
Ngũ nhựt Y kỳ sau thủ lễ
Trần gian xem thấy rõ Thiêng Đường
<o:p></o:p>
Đường đại đạo khuyên người chí kỉnh
Giữ lời vàng chớ phỉnh tiếng chi
Hòa nhau hội đã đến kỳ
Chiêu hồi thiên thượng, chép ghi nhơn hiền
Long hoa xem rõ đàn tiền
Khuyên người khá giữ lời truyền của ta
Giã người ta lại Thiên Tòa
Nhớ lời huấn dụ sau mà rõ thông”
<o:p></o:p>
Theo ý bài thơ trên Bạch Hạc Đồng Tử dặn 5 ngày mới liệm! một bác sĩ tới thấy mắt trái Ngài mở ông kéo mí mắt xuống thả ra và mắt lại bật mở ra như cũ! Mắt phải kéo mí lên thả ra thì nhắm lại y nguyên
<o:p></o:p>
Các chi phái đạo và cả soái phủ sài gòn đều cử người đến điếu ta, Hội Thánh Tây Ninh có gởi điện chia buồn! đám tang ngài thật yên tịnh, không kinh nhạc, không kinh kệ,lúc sinh tiền Ngài có dạy chư đệ tử rằng: “ lúc sinh tiền tôi đã biết tôi là ai, khi bỏ xác đi về đâu, đọc kinh cầu nguyện cho tôi không ích lợi gì”<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
(Ngài Ngô gặp Đức Cao Đài một cách rất riêng tư, âm thầm, lặng lẽ! cũng như chúa giesu sinh trong một động đá ở Bê Lem! Ngài thọ truyền Tâm Pháp từ Đức Cao Đài! Một pháp tu cần sự yên tịnh! Ngài Ngô đăng tiêng kết thúc chuỗi ngày Thầy đã vất vả dạy đạo cho Ngài “ ba năm lao khổ độ nhứt nhơn”! Ngài đăng tiên đã hoàn thành sứ mệnh cơ Tâm Pháp của Đạo Cao Đài!? Và mở ra một thời kỳ Phổ Độ sau này?)
Q khôg biết ngày 13-3 có ý nghĩa gì! nhưng có sự trùng lặp thú vị: ngày 13-3 - bính dần lễ Thiên Phong cho bậc tiền khai Đại Đạo! và ngày 13-3 nhâm Thân cũng là ngày Đức Ngô đăng tiên!
<o:p></o:p>
2. Đức Hộ pháp Phạm công tắc<o:p></o:p>
(Còn tiếp)
 

MinhKy

New member
Thưa quý hiền!

Theo tôi thấy thì bài viết của Hào Quang có giá trị ở các điểm như sau:
1- Đã nêu lên được tấm gương của người đệ tử đầu tiên của nhà đạo, người mà ở đó được hậu thế xem như bậc Tôn Sư, có giá trị độ rỗi về phần hồn cũng như phần xác của toàn thể môn đồ, không phân biệt là Vô Vi hay Phổ Độ.
2-...
 

hienhuu

New member
<meta http-equiv="Content-Type" content="text/html; charset=utf-8"><meta name="ProgId" content="Word.Document"><meta name="Generator" content="Microsoft Word 11"><meta name="Originator" content="Microsoft Word 11"><link rel="File-List" href="file:///C:%5CUsers%5Ckhuong%5CAppData%5CLocal%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_filelist.xml"><!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><style> <!-- /* Style Definitions */ p.MsoNormal, li.MsoNormal, div.MsoNormal {mso-style-parent:""; margin:0cm; margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:12.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";} p.text03i, li.text03i, div.text03i {mso-style-name:text03i; mso-margin-top-alt:auto; margin-right:0cm; mso-margin-bottom-alt:auto; margin-left:0cm; mso-pagination:widow-orphan; font-size:12.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";} p.luat, li.luat, div.luat {mso-style-name:luat; mso-margin-top-alt:auto; margin-right:0cm; mso-margin-bottom-alt:auto; margin-left:0cm; mso-pagination:widow-orphan; font-size:12.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";} p.than1, li.than1, div.than1 {mso-style-name:than1; mso-margin-top-alt:auto; margin-right:0cm; mso-margin-bottom-alt:auto; margin-left:0cm; mso-pagination:widow-orphan; font-size:12.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";} @page Section1 {size:595.3pt 841.9pt; margin:72.0pt 90.0pt 72.0pt 90.0pt; mso-header-margin:35.4pt; mso-footer-margin:35.4pt; mso-paper-source:0;} div.Section1 {page:Section1;} --> </style><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; mso-para-margin:0cm; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> Ở dưới thế nầy Tín Đồ có quyền đi cầu Siêu Và Giáo-Tông thì có Quyền cầu rỗi. <o:p></o:p>
Còn Quyền Độ rỗi và Siêu rỗi là Quyền của Đức Chí-Tôn nơi Bát Quái Đài.<o:p></o:p>
Tức là Nhơn-Loại chỉ có quyền cầu mà thôi.<o:p></o:p>
Còn rỗi được hay không là do Thầy Trời.<o:p></o:p>
Xin xem TNHT Q.1:<o:p></o:p>
… “Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao Chánh Giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà buộc phải lập Chánh Thể, có lớn nhỏ đặng dễ thế cho các con dìu dắt lẫn nhau, anh trước em sau mà đến nơi Bồng Ðảo.<o:p></o:p>
Vì vậy Thầy mới lập ra có một phẩm Giáo Tông, nghĩa là anh cả, ba phẩm Ðầu Sư, nghĩa là Giáo Hữu. Chẳng một ai dưới thế nầy còn đặng phép nói rằng thế quyền cho Thầy mà trị phần hồn của nhơn loại. Ai có đức hạnh lớn thì mới ngồi đặng địa vị của Thầy ban thưởng. Còn cả môn đệ, ai cũng như ai, không đặng gây phe, lập đảng; nhược kẻ nào phạm tội, thì Thầy trục xuất ra ngoài, cho khỏi điều rối loạn.”<o:p></o:p>
Và xin trích 1 đoạn Pháp Chánh Truyền và Chú-Giải :<o:p></o:p>
“PHÁP CHÁNH TRUYỀN:Nó đặng phép thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế Giái, Lục Thập Thất Địa Cầu và Thập Điện Diêm Cung, đặng cầu rỗi cho các con. <o:p></o:p>
CHÚ GIẢI: Thầy đã nói, đặng cầu rỗi cho các con thì Thầy đã chỉ rõ rằng, Giáo Tông có phần cầu rỗi mà thôi, chớ phần siêu rỗi là về quyền của Bát Quái Đài chưởng quản. <o:p></o:p>
Đức Giáo Tông làm thế nào mà thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế Giái, Lục Thập Thất Địa Cầu và Thập Điện Diêm Cung mà cầu rỗi cho các Tín Đồ? <o:p></o:p>
Người phải đến Hiệp Thiên Đài cầu huyền diệu Cơ Bút mới đặng. Xin trích lục ra đây, đoạn Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài nói về việc ấy: "Lại nữa Hiệp Thiên Đài là nơi của Giáo Tông thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế Giái, Lục Thập Thất Địa Cầu, Thập Điện Diêm Cung mà cầu siêu cho cả nhơn loại". <o:p></o:p>
Ấy vậy về phần Thiêng Liêng là phần Đạo, thì Ngài chẳng có quyền hành chi hết, dầu cho dâng sớ cầu điều chi cùng Bát Quái Đài, thì cũng phải do nơi Hiệp Thiên Đài cả. <o:p></o:p>
Hiệp Thiên Đài là trung gian để liên hiệp Giáo Tông cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.”
 

Phụng Thánh

New member
Vì vậy Thầy mới lập ra có một phẩm Giáo Tông, nghĩa là anh cả, ba phẩm Ðầu Sư, nghĩa là Giáo Hữu.

Huynh hienhuu mến
từ Giáo Hữu này có nghĩa gì ? Mong Huynh chỉ giáo . Đa tạ !
 

hienhuu

New member
Giáo Tông là Anh Cả thay thế cho Cha Hiền mà Giáo-Hữu cho em như ba phẩm Đầu-Sư.
Giáo-Hữu ở trên là Có dạy.( quyền huynh thế Phụ là thay Cha Thầy mà có Dạy cho em.)./. Thân
 

Hao Quang

New member
Q xin tiếp tục chủ đề còn dang dở! xin HTĐM hãy bình tâm! Q nêu chủ đề này để tìm ra một sự liên kết nào đó giữa các vị tiền bối từ lúc Khai Đạo! hơn nữa công việc của Q thường xuyên tiếp xúc với máy tính nên đăng hết trang này để khi rãnh thì vào đọc và nghiền ngẫm! chớ Q không có ý chi khác cả! quan điểm của Q LÀ tất cả HTĐM các Hội Thánh - Cơ Quan - Thánh Tịnh - Thánh sở đều là anh em một nhà! Q cũng xin lỗi HTĐM vì những bài viết hôm rồi! Q sẽ tiếp tục chủ đề này! sẽ vui nếu có những đóng góp có ý tích cực cho nền Đạo trong tương lai!

2. Đức Hộ pháp Phạm công tắc
<?xml:namespace prefix = o /><o:p>Đức Chí Tôn giáng cơ dạy quí ông: Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, Nguyễn Trung Hậu, Trương Hữu Đức, phải hiệp với ông Đốc Phủ Ngô Văn Chiêu mà lo mở Đạo. Đức Chí Tôn còn dặn rằng: Mỗi việc chi đều phải do nơi ông Chiêu là Anh Cả.
Đêm 30 tháng chạp năm Ất Sửu (dl 12-2-1926), tức là đêm giao thừa bước qua mùng 1 Tết Bính Dần, Đức Chí Tôn dạy quí ông đến thăm từng nhà, thăm mỗi môn đệ (lúc đó có được 13 môn đệ có tên trong bài thi tứ tuyệt của Đức Chí Tôn: Chiêu Kỳ Trung...), đem Ngọc cơ theo để cầu Thầy. Khi phái đoàn đến nhà ông Tắc, Đức Chí Tôn giáng cho bốn câu thi, mà sau nầy Đức Phạm Hộ Pháp thuật lại như sau:
"Bần đạo nhớ lại hồi ban sơ mới Khai Đạo, thật ra Bần đạo không có đức tin gì hết, không có đức tin đến nước Đại Từ Phụ tức cười. Ngài đến nhà Bần đạo cuối năm Ất Sửu, dạy cả mấy anh lớn ngày nay là Chức sắc của Đạo, đi đến mọi nhà, thật ra Đức Chí Tôn đến thăm viếng mọi con cái của Ngài. Bần đạo không có đức tin gì hết, nghe nói Tiên giáng thi, theo nghe thi chơi, làm cho Đại Từ Phụ phải tức cười. Ngài cho bài thi ai nấy cũng tốt, duy có bài thi cho Bần đạo thì rất dị hợm, như vầy:
Ngao ngáo không phân lẽ thiệt không,
Thấy thằng áp út quá buồn lòng.
Muốn giàu Thầy hứa đem cho của,
Cái của cái công phải trả đồng.
Đại Từ Phụ còn thêm hai chữ: Nghe con!"
(Thằng Áp út là Đức Chí Tôn gọi ông Phạm Công Tắc, vì ông là con trai Áp út trong gia đình).

xin trích 1 đoạn trong bài viết của soạn giả Đạo Huynh Huệ Nhẫn tại trang:http://www.nhipcaugiaoly.com/
Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc là một vị tiền bối dày công với Đạo buổi đầu, đặc biệt Ngài được chư đạo hữu tại thánh địa Tây Ninh kính trọng vào hàng bậc nhất do đạo đức của Ngài và công lao xây dựng nên Tòa thánh Tây Ninh.</o:p>
<o:p>Lúc Cơ quan Phổ Thông Gíáo Lý mới thành lập, cùng với Hội đồng Tiền bối Đại Đạo, Đức Hộ Pháp với danh xưng "Thượng Tôn Quản Thế Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ" đã nhiều lần giáng dạy những điều rất căn bản (thí dụ dạy về ý nghĩa các ngày khai tịch Đạo 23-8 và ngày Khai Minh Đại Đạo rằm tháng 10).</o:p>
<o:p></o:p>
<o:p>Có thể nói, Đức Phạm Công Tắc gắn liền với lịch sử buổi đầu khai đạo Cao Đài nhánh Công truyền. Cơ Đại Đạo vận chuyển, theo sắp xếp của Đức Chí Tôn, giữa năm Ất Sửu (1925) đã đến thời mở đạo.</o:p>
<o:p>Ngày 5-6 Ất Sửu (25-7-1925), ba vị đang họp mặt tại nhà Ngài Cao Hoài Sang ở phố Hàng Dừa (đối diện chợ Thái Bình, nhà ngài Phạm Công Tắc cách kế một căn), thì phát tâm xây bàn. Bắt đầu từ đó, nhiều vị Thiên sứ giáng điển tiếp xúc và dần dần hướng chư vị vào cửa Đạo. (Các diễn tiến từng bước theo thời gian, việc mở Đạo của Ơn Trên, có thể đọc tường tận trong các quyển Sử Đạo.)</o:p>
<o:p>Từ việc chuyển hình thức từ xây bàn qua dùng đại ngọc cơ, lễ Hội Yến Diêu Trì đêm Trung Thu Ất Sửu, lễ Vọng Thiên cầu Đạo đêm 01-11 Ất Sửu, đến đàn Noel năm 1925 là lần đầu tiên Đức Chí Tôn xưng hồng danh "Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát", đều có sự tham dự của Ngài Phạm Công Tắc trong vai trò chính, với tư cách người tích cực tổ chức, điều động… và nhất là chính Ngài phò ngọc cơ (cùng với Ngài Cao Quỳnh Cư về sau được Thiên phong Thượng Phẩm).</o:p>
<o:p></o:p>
<o:p>Trong năm đầu tiên khai Đạo, Ơn Trên sử dụng sáu cặp đồng loan phò ngọc cơ gồm:</o:p>
<o:p>1. Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư
2. Trương Hữu Đức, Nguyễn Trung Hậu
3. Trần Duy Nghĩa, Trương Văn Tràng
4. Ca Minh Chương, Phạm văn Tươi
5. Phạm Tấn Đãi, Nguyễn Thiên Kim
6. Cao Hoài Sang, Cao Quỳnh Diêu </o:p>
<o:p></o:p>
<o:p>Các cặp đồng loan trên là chánh danh do Đức Chí Tôn chỉ định tiếp điển Thiêng Liêng mở Đạo, phổ độ nhơn sanh. Nhưng chỉ có cặp đồng loan Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư là cặp cơ phong thánh. Nhị vị đồng loan này, và chỉ nhị vị, là người được tiếp điển Đức Chí Tôn để thiên phong chức sắc cao cấp nhứt Hội thánh là ba vị Chưởng pháp, ba vị Đầu sư, các vị Chánh Phối sư, Phối sư và một số chức sắc cấp dưới để thành lập Hội thánh vào rằm tháng 10 Bính Dần. Cũng chính nhị vị tiếp điển để Đức Chí Tôn ân ban Pháp Chánh Truyền.</o:p>
<o:p>Có một điều ít ai để ý là cặp đồng loan này phò cơ không có pháp đàn. Ngoại trừ một buổi đàn đêm giao thừa Ất Sửu - Bính Dần có vị pháp đàn, đó chính là Ngài Ngô Minh Chiêu.</o:p>
<o:p>
Giờ Tý ngày rằm tháng 3 Bính Dần, tại nhà Ngài Lê Văn Trung ở Chợ Lớn (nay gần góc Châu Văn Liêm, Lão Tử), buổi lễ Thiên phong Chức sắc lần đầu tiên được tổ chức. Ba vị chức sắc rường cột cho Đạo được Thầy đặt để. Bên Cửu Trùng Đài là nhị vị Đầu sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt. Bên Hiệp Thiên Đài, phẩm Hộ pháp cho Ngài Phạm Công Tắc.</o:p>
<o:p>Có một điều hết sức đặc biệt trong trường hợp của Ngài Phạm Công Tắc, chưa thấy có trường hợp thứ hai, là khi Ngài Phạm Công Tắc đứng trên bàn Hộ pháp hôm rằm tháng 3 ấy, mặt Ngài đắp một tấm khăn đỏ, Ngài được Đức Chí Tôn (lúc này đã nhập thần vào Ngài Cao Quỳnh Cư) trục chơn thần ra, thay vào đó là chơn thần của vị Hộ Pháp. Đây gần như là một sự thay thế hay bổ sung chơn thần tạm khi Ngài phò cơ. Cũng kể từ đây, Ngài chánh danh chánh vị là Hộ Pháp của Hội Thánh, một chức phẩm vào hàng phật vị: Phật Hộ Pháp thường thấy ở các chùa.</o:p>
<o:p></o:p>
<o:p>Danh vị Hộ pháp này mới xứng đáng để tất cả các chức sắc, từ nhị vị Đầu sư trở xuống phải quỳ trước mặt mà thề, trong lời thề có câu cuối là:</o:p>
<o:p>"Như ngày sau phạm thiên điều, thề có Hộ Pháp hành pháp đọa tam đồ bất năng thoát tục." </o:p>
<o:p>Lời thề này rất nặng. Chúng ta biết một chơn linh tiến hóa từ kim thạch lên thảo mộc, thú cầm hàng muôn triệu kiếp mới đặng làm người. Đoạ tam đồ, là phải tiến hóa ba lần như vậy…
Ngay từ khi mới được khai sáng, đạo Cao Đài được quảng truyền rộng rãi một cách hết sức nhanh chóng. Theo tài liệu của Sở Mật thám Đông Dương, đến rằm tháng 10 Bính Dần có 400.000 người theo Đạo. Năm 1931, đạo Cao Đài có 105 thánh thất, qua năm sau, số thánh thất tăng lên 128. Theo báo Progrès số ra ngày 19-12-1931, số tín đồ Cao Đài là một triệu người.
</o:p>
<o:p>Như vậy, song song với việc mở rộng mối Đạo đến đủ mọi thành phần xã hội, từ trí thức đến nông dân, với số lượng đông đảo liên tục tăng lên, hệ thống tổ chức Giáo hội phải phát triển theo cho hợp với tầm cỡ. Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đã trực tiếp tham gia vào các việc mang tính chiến lược:
- Về mặt hình thức trụ tướng:</o:p>
<o:p>+ Mở mang khu Thánh địa Tây Ninh
+ Cất Tòa Thánh và Báo Ân Từ cùng các cơ sở Đạo trong nội ô.
+ Xây dựng ba cung, ba động : Trí Huệ Cung ở Thiên Hỷ Động; Trí Giác Cung ở Địa Linh động và Vạn Pháp Cung ở Nhơn Hòa động.
+ Cất chợ Long Hoa (1951) và phòng Kinh lý Họa đồ; phóng các con đường rộng, thẳng; phân lô đất cấp cho bổn đạo từ các nơi đổ về. Định vị trí xây dựng trường học, bệnh viện, nghĩa địa và cả… sân bay.</o:p>
<o:p>- Về mặt phát triển cơ cấu tổ chức:</o:p>
<o:p>+ Pháp Chánh Truyền là cơ sở pháp lý căn bản nhất của Đạo do chính Đức Chí Tôn ân ban, quy định các cấp chức sắc Hội Thánh, chủ yếu phần Cửu Trùng Đài. Là người có trách nhiệm cao nhất Hiệp Thiên Đài, Đức Hộ Pháp đã trình xin Ơn Trên bổ sung thêm hàng chức việc dưới Thập Nhị Thời Quân.</o:p>
<o:p></o:p>
<o:p>Ngày 16-2 Ất Hợi (1932), Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ góp ý với Đức Hộ Pháp thành lập bảy phẩm, từ trên xuống: Tiếp dẫn Đạo nhơn, Chưởng ấn, Cãi trạng, Giám đại, Thừa sử, Truyền trạng, Sĩ tải.</o:p>
<o:p>+ Lập Ban Thế Đạo : đây là một cơ quan đặc biệt thu nhận những người có khả năng, đang bận làm việc ngoài đời, tạo điều kiện cho họ làm công quả giúp Đạo. Năm Quý Tỵ (1954), Đức Hộ Pháp lập phẩm Hiền tài. Sau đó Đức Lý Giáo Tông bổ sung ba phẩm: Quốc sĩ, Đại phu, Phu tử.</o:p>
<o:p>Nhờ Ban Thế Đạo, rất nhiều vị ban đầu chỉ công quả giúp Đạo, về sau cầu phong (hay được bổ nhiệm) vào hàng chức sắc, mà Ngài Hồ Tấn Khoa là một thí dụ điển hình. Từ Hiền tài, Ngài được ân phong Bảo đạo Chơn quân vào năm 1954.</o:p>
<o:p></o:p>
<o:p>Có một số vấn đề gây nhiều dư luận, thậm chí còn ảnh hưởng đến ngày nay, liên quan Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, như việc lập Phạm môn (sau là Cơ quan Phước thiện), nhứt là Bát Đạo Nghị Định và việc chưởng quản nhị hữu hình Đài của Ngài năm 1934. Đến nay đã qua 70 năm, thời gian đủ để nhìn vấn đề một cách khách quan và toàn diện. Để qua một bên những ý kiến cho rằng đây là Thiên ý (có nhiều Thánh giáo để minh chứng), chỉ xét thuần túy bối cảnh lúc ấy, một số tác giả nghiên cứu về lịch sử Đạo, trong đó có người viết bài này, nhận thấy rằng: vào những năm từ 1930 đến 1934, tình hình đạo Cao Đài quá biến động, nhiều vị chức sắc cao cấp quy liễu như Thượng Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương, Ngọc Chưởng Pháp Trần Văn Thụ (trước đó là sự tách rời của Thái Chưởng Pháp Như Nhãn và Thái Đầu Sư Thiện Minh), việc tách ra lập chi phái Minh Chơn Lý của Phối Sư Thái Ca Thanh; sự bất hợp tác của chư vị ở thánh thất Cầu Kho. Rồi Hội thánh Ban Chỉnh Đạo do nhị vị Quyền Đầu Sư Thượng Tương Thanh và Ngọc Trang Thanh ra mắt ở An Hội, Bến Tre, kéo theo đa số thánh thất hiện có lúc bấy giờ.</o:p>
<o:p></o:p>
<o:p>Cơ Đạo lúc này xảy ra tình trạng phân ly sâu sắc, nhơn tâm bất ổn. Lý do phân ly đúng sai sẽ có lịch sử phán xét. Tại Tây Ninh, đơn thuần là việc bảo vệ sự tồn tại của Hội thánh đầu tiên, nơi mà Đức Chí Tôn và chư Tiền khai đã dày công xây dựng. Đang trong tình trạng dầu sôi lửa bỏng ấy, Ngài Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt quy thiên (13-10 Giáp Tuất 1934), Tòa thánh Tây Ninh gấp rút triệu tập Hội Nhơn sanh và Hội thánh. Nghị quyết đưa ra là yêu cầu Đức Hộ Pháp nắm quyền chưởng quản Cửu Trùng Đài cho đến ngày có đủ ba vị Đầu sư. Kể từ đó, (06-11 Giáp Tuất, 12-12-1934), Đức Hộ Pháp nắm quyền chưởng quản nhị hữu hình đài: Cửu Trùng và Hiệp Thiên.</o:p>
<o:p></o:p>
<o:p>Bát Đạo Nghị Định cũng ra đời trong bối cảnh ấy, đặc biệt là Đạo Nghị định thứ 8, nguyên văn như sau:"Những chi phái nào do bởi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ làm gốc lập thành mà, không do nơi mạng lịnh Hội Thánh, thì cả chúng sanh chẳng đặng nhìn nhận là của Chí Tôn và phải định quyết là bàng môn tả đạo."
Ký tên
Hộ Pháp Phạm Công Tắc Giáo Tông Lý Thái Bạch
(15-7 Giáp Tuất)
</o:p>
<o:p>Đạo Nghị định thứ 8 đưa ra gây nên một phản ứng mãnh liệt từ các chi phái. Thời gian trôi qua… cũng không thấy có hiện tượng rõ rệt nào chứng tỏ các tín hữu đã chọn theo chi phái quay trở lại Tòa Thánh. Các chi phái vẫn tiếp tục hoạt động. Điều này nói lên rằng quyền của vạn linh, con cái của Đức Chí Tôn là cao tột nhất. Người tín đồ đơn giản chỉ biết một lòng quỳ trước Thiên bàn kính lạy các Đấng… Còn các anh lớn sắp xếp như thế nào thì đó là chuyện của… các anh lớn.</o:p>
<o:p>
Chỉ có điều đến nay tổng kết lại, sau Đạo Nghị định thứ 8 năm 1934 ấy, hiện tượng tách ra lập chi phái hầu như ngưng lại, ổn định hơn.</o:p>
<o:p></o:p>
<o:p>Công trình xây dựng Tòa thánh Tây Ninh :</o:p>
<o:p>Hầu hết các sách sử hay tài liệu nói về việc xây dựng Tòa Thánh đều ghi rằng Tòa Thánh bắt đầu được khởi công vào tháng 10 năm Tân Mùi (1931) do Ngài Thái Thơ Thanh (lúc ấy đang là Chánh Phối sư) đảm trách việc xây dựng: đào móng, đổ bê tông hầm Bát Quái Đài… Sau đó, qua một thời gian ngưng trệ, Ngài Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung tiếp tục công trình. Tiếp đến, Ngài Tiếp thế Lê Thế Vĩnh làm thêm được chút ít… Năm 1936, Đức Hộ Pháp tiếp tục công trình cho đến hoàn thành. Sự thật không phải như vậy.</o:p>
<o:p></o:p>
<o:p>Hiện còn nhiều chứng nhân hành đạo tại Tòa Thánh xác nhận rằng các công việc xây dựng Tòa Thánh trước đó là có, nhưng đều bị hủy hoại hết, hầm Bát Quái đã được đào, vị trí hiện nay là sân gạch trụ phướn (đã đổ 200m3 bê tông phía dưới) được lấp lại. Nếu Bát Quái Đài nơi ấy, mặt tiền Tòa Thánh rẽ gần đến Cửu Trùng Thiên.</o:p>
<o:p>Ngày 01-11 Bính Tý (14-02-1936), Đức Hộ Pháp huy động 100 vị công quả hiến thân (nam nữ thệ nguyện không lập gia đình trong thời gian xây cất, giữ tịnh khiết để tạo tác Đền Thánh).</o:p>
<o:p>
Việc xây Đền Thánh. Một mặt, Đức Hộ Pháp điều động nông viện hỗ trợ lương thực, công viện tham gia sản xuất vật liệu xây dựng như cát, đá, dóng gạch… vận chuyển về kho bãi ngăn nắp. Còn tại công trường, Ngài phân phối sắp xếp từng công việc, chia thành từng nhóm riêng có Tá lý phụ trách. Tổng giám Lê Văn Bàng điều động chung.</o:p>
<o:p>Cứ mỗi ngày, vào buổi sáng, Đức Hộ Pháp đến từng nhóm hướng dẫn công việc bằng cách lấy một thanh tre vẽ kiểu trên mặt đất, chỗ nào đào, chỗ nào đắp, chỗ xây, chỗ tô, kích thước rõ ràng. Các Tá lý cứ theo đó mà làm. Tuyệt nhiên không hề có họa đồ (bây giờ gọi là bản vẽ thiết kế thi công), hoàn toàn không có bản vẽ.</o:p>
<o:p></o:p>
<o:p>Làm được ba năm, đến 1939, Đền Thánh đã có hình dáng sừng sững uy nghi. Chính phủ Pháp muốn cản trở nên cử xuống ba kỹ sư (xưa gọi là bác vật), hai người Pháp, bác vật người Việt là ông Lưu Văn Lang kiểm tra cấu trúc Tòa Thánh với mục đích ngăn chận việc xây dựng nếu không đúng kỹ thuật. Nhưng khiến xui ông Lang lại có cảm tình với Đạo. Bằng cách đo vẽ, tính toán theo ngành xây dựng, ông đã chứng minh được rằng cấu trúc Tòa Thánh rất bền vững. Nhờ vậy, chính quyền Pháp không có cớ cản trở. Cũng nên nói thêm về ông bác vật Lưu Văn Lang. Trước đó, ngày 06-3-1928, ông cầu xin có một đàn riêng. Thầy hỏi chư vị: "Các con coi Lang là bực nào?"</o:p>
<o:p></o:p>
<o:p>Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa bạch: "Bực thượng lưu."
"Cười, thượng đẳng chớ không phải thượng lưu. Nếu nó muốn rõ Đạo thì các con cũng đủ sức nói cho nó nghe, lựa là phải hỏi đến Thầy. Như nó là đứa tâm đạo, cùng có lòng bác ái, thì tự nhiên đến hiệp với các con mà chung lo cho sanh chúng, chớ tư cầu mà làm chi. Thầy không thâu nạp lời xin ấy, nghe à!"</o:p>
<o:p>Trở lại việc xây dựng Đền Thánh, tiếp tục còn nhiều hồi khảo đảo.Công việc xây cất chưa xong thì ngày 04-6 Tân Tỵ (1941) mật thám Pháp vào Tòa Thánh bắt Đức Hộ Pháp, sau đó bắt thêm một số chức sắc khác (trong đó có Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa) và đúng một tháng sau, ngày 04-6 nhuần, Pháp đưa các vị đi đày ở đảo Madagascar (Phi Châu).</o:p>
<o:p></o:p>
<o:p>Cuộc đồ lưu hải ngoại này kéo dài năm năm, đến 25-7 Bính Tuất (1946), Pháp mới thả Ngài về Việt Nam. Ngày 04-8 Bính Tuất (30-8-1946) Đức Hộ Pháp về đến Tòa Thánh. Ngài tức tốc triệu tập công thợ tái xây dựng Đền Thánh mà trong thời gian Ngài bị giam cầm bị Pháp chiếm dụng làm chỗ đậu xe. Gạch lót nền Đền Thánh bị người Pháp cạy lên đem lót chợ. Đức Hộ Pháp cho lệnh lót gạch trở lại (do vậy, ngày nay ta thấy trên Đền Thánh, đường chỉ gạch hơi bị sứt mẻ.)</o:p>
<o:p></o:p>
<o:p>Ngày 06-01 Đinh Hợi (1947), chỉ sau bốn tháng, Đức Hộ Pháp làm lễ trấn thần Tòa Thánh; qua mồng 8, rước quả Càn Khôn từ Báo Ân Từ về Bát Quái Đài Tòa Thánh để kịp cúng đại lễ vía Đức Chí Tôn vào giờ Tý mồng 9 tháng giêng năm Đinh Hợi. Tuy vậy, lễ khánh thành Tòa Thánh mãi đến tám năm sau, nhân đại lễ vía Đức Chí Tôn năm Ất Mùi (1955) mới tổ chức được, cùng lúc với Báo Ân Từ và một số dinh thự khác trong nội ô.</o:p>
<o:p>Công việc xây dựng trụ tướng Tòa Thánh Tây Ninh vậy là vừa kịp lúc, vì tình hình chính trị, xã hội miền Nam đã biến động mạnh. Sau hiệp định Genève, phân chia Việt Nam thành hai miền Nam, Bắc. Chính phủ miền Nam không thuận lòng với chính sách "hòa bình chung sống" của Ngài Phạm Công Tắc nên đã giam lỏng Ngài tại Hộ Pháp đường hơn bốn tháng.</o:p>
<o:p>
Vào 3giờ sáng ngày 05-01 Bính Thân (1956), một năm sau ngày khánh thành Tòa Thánh, Đức Hộ Pháp cùng một số vị chức sắc (trong đó có Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa) lên đường sang Campuchia tỵ nạn chính trị tại thánh thất Kim Biên, Nam Vang.</o:p>
<o:p>Tại thánh thất Kim Biên, Ngài cũng thường thuyết pháp cho tín hữu sở tại hiểu lý Đạo Trời.</o:p>
<o:p>Đức Hộ Pháp quy thiên vào lúc 13giờ 30 phút ngày mùng 10-4 Kỷ Hợi (17-5- 1959) tại thánh thất Kim Biên, Nam Vang, hưởng thọ 70 tuổi. Lễ tang Ngài được tổ chức trọng thể trong sự tiếc thương vô hạn của các tín đồ Cao Đài, đặc biệt là sự đau buồn đối với hàng chức sắc và tín hữu Tòa thánh Tây Ninh.
Đức Ngài đã được Thiên triệu sau khi hoàn tất nhiệm vụ trong kiếp người ở cõi thế, đã làm một cánh tay đắc lực, một đại tướng soái của Thầy trong thời phổ độ kỳ Ba này.</o:p>
<o:p>3.Đức Thái Lão Trần Đạo Quang Du Trung </o:p>và Đạo Minh Sư Quy hiệp Cao Đài Đại Đạo
 

Hao Quang

New member
Trong khi ở miền nam Đạo Cao Đài được nhơn sanh biết đến qua một Ngài Quan Phủ Ngô Minh Chiêu theo Đạo Cao Đài và Đắc Đạo tại thế, một Đức Phạm Công Tắc, một Đức Thượng Trung Nhựt, Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang…..đã gieo những hạt mầm Đại Đạo Tam KỲ Phổ Độ Kỳ Ba Đại Ân xá tại mảnh đất miền nam làm nức lòng người mộ Đạo! <?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:eek:ffice:eek:ffice" /><o:p></o:p>
<o:p></o:p>
thì trước đó trong khoản thời gian 1915 – 1924 có một vị Chân Tu thuộc Đạo Minh Sư đã đi đi về về giữa miền nam và miền trung phổ độ nhơn sanh theo Đạo Minh sư chính chi tiết này đã làm bước đệm cho Đạo Cao Đài vươn ra xa hơn các tỉnh thành trong cả nước!

từ 1926 – 1938 quả thực sau đó phần lớn Tín Đồ Minh Sư trong nam và ngoài trung quy hiệp cao đài mà Đức Thái Lão Trần Đạo Quang một chức sắc cao cấp vào hàng Thái Lão của Minh Sư là người chuyển tải thông điệp của Đức Thượng Đế khuyên dụ tín hữu Đạo Minh Sư quy hiệp để cho kịp kỳ đại ân xá! Và Ngài đã có những đóng góp rất lớn vào sự hưng thịnh của cơ Đạo Miền trung cùng với Ngài Huỳnh Ngọc Trác, Nguyễn Quang Châu, Trần Văn Quế, Bảo Đạo Cao Triều Phát …<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
Vài nét về Đạo Minh Sư:<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
Đạo Minh sư xuất xứ từ Trung Hoa ( xin lỗi HTĐM Q chưa biết ai ai sáng lập rạ Đạo Minh Sư Lục tổ Huệ Năng hay Thần Hội?? kính nhờ Huynh Thanh Phong giải Đáp dùm HQ nhen! Tks Huynh nhìu nhìu). <o:p></o:p>
<o:p></o:p>
và Đạo Minh Sư nhập vào VN từ năm 1863 thờ các Đấng Ngọc Hoàng, Phật Thích Ca, Quan Thế âm, …hiện tại có 52 Phật Đường, ở 18 tỉnh trong cả nước với 10.000 tín đồ!
<o:p></o:p>
Vài nét về cuộc đời hành Đạo của Ngài Tháo Lão Trần Đạo Quang:
<o:p></o:p>
Cha mẹ Ngài tu theo Minh sư nên Ngài thọ bẩm đường lối ấy!
<o:p></o:p>
+ Năm 13 tuổi Ngài phát tâm xin nhập Đạo Minh Sư và được saong thân ưng thuận
+ Năm 16 tuổi (ất dậu 1885) Ngài thọ trường trai và bước vào con đường giải thoát
+ Năm 21 tuổi ( Canh Dần 1890) Ngài Quyết tâm cầu lên Nhứt Bộ, Trường trai tuyệt dục phế đời giải thoát Song thân Ngài nhứt quyết không chịu nhưng sau đó Ngài Thuyết Phục được
Từ đó đường tu của Ngài một mực đi lên
+ Năm 22 tuổi Cầu Nhị Bộ
+ Năm 23 tuổi: cầu Tam Bộ thế là xong nhứt thừa Châu Viên
+ Năm 25 tuổi: Ngài bắt đầu bước vào Nhị Thừa lãnh thiên mạng gọi là Thiên ân
+ Năm 31 tuổi: Ngài cầu thọ Thiên Ân lên một bậc Chứng Ân lấy chữ lót “ Minh” Trần Minh Quang
+ năm 34 tuổi:cầu thọ lên “ Dảm Ân” lấy chữ lót là Xương Trần Xương Quang
+ Năm 37 tuổi: lên bậc “Dẫn Ân” chữ lót đổi thành “Vỉnh” Trần Vỉnh Quang
Đến đây là xong phần nhị thừa
+ Năm 41 tuổi Ngài bước vào Tam Thừa
Ngày 19-7 giờ Thìn canh Tuất ( 23-8-1910) Ngài được thọ Pong “Đảnh Hàng” tức là Phẩm vị lão sư hàng chức sắc cao cấp Đạo Minh Sư chữ lót là “Vận” Trần Vận Quang
<o:p></o:p>
Hàng Lão sư lúc ấy đa số là tu theo Bán Thế xuất gia riêng Ngài Trần Đạo Quang đồng chơn nhập Đạo nên rất đươc người đời kính trọng
<o:p></o:p>
Sao nhiều năm Hành Đạo Ở Cái Hóa – Định Tường – Thôm Rôm – Cai Lậy …danh tiếng của Ngài vang ra khắp miền Nam Trung
+ Năm 45 Tuổi (giờ dần ngày 14-4 Giáp Dần – thứ sáu ngày 8-5-1914) Ngài Được cầu phong thập địa Thái Lão Sư do Tổ Sư Trần Đạo Khánh bên Trung Hoa (Tông Phổ Tế) truyền Thọ chữ Lót là Đạo, Trần Đạo Quang .
Có thể nói Đức Tháo Lão Trần Quang được rất nhiều người nể trọng trong đó có Tổ Sư Trần Đạo Khánh thông qua câu đối:

<o:p></o:p>
Đạo cốt tiên Phong duy thử Lão
Quang tiền dũ hậu thị tử Nhân

Hai chữ đầu là Đạo Quang hai chữ cuối là Lão Nhân! Ý nói “Đạo cốt tiên Phong duy có người này, soi sáng đời trước truyền nối lại đời sau chỉ có người này”
<o:p></o:p>
Thọ tổ mạng xong Ngài Đi nhiều nơi Phổ Độ sau đó được sự tín nhiệm của 12 vị Lão Sư mời Ngài về Linh Quang Tự ở Làng Hạnh Thông Tây, Quận Gò Vấp – Tỉnh Gia Định chuyển thác Chùa Linh Quang và Đạo Ngiệp Cho Ngài! Từ Đấy Linh Quang Tự là Tổ Đình của Tông Phổ Tế Đạo Tam Giáo Minh Sư mà Ngài là người Chủ trì.
<o:p></o:p>
Năm ất mẹo 1915 Ngài Ra Trung Ngài thu nhận nhiều Đệ tử: Bà Tam tường, ông Trương Như Hối, ông Nguyễn Thượng Khải, Nguyễn Vỉnh Tử, …( Bà Tham Tường và ông Nguyễn Thượng Khải sau là chức sắc của Hội Thánh Truyền Giáo)
<o:p></o:p>
Cùng chuyến Du Trung đó Ngài Thái Lão quen biết rất nhiều nhân sĩ trong đó có ông Lãnh Binh Trương Điềm quê ở Thừa Thiên được cử làm Trấn Nhậm ở Quảng Nam( một chức quan trong tỉnh có quyền thế tại Nam Triều) sau là Đệ tử của Ngài cũng nhờ quen biết rộng nên Đức Thái Lão độ được rất nhiều người theo Đạo Minh Sư
<o:p></o:p>
Sau đó ông Lãnh Binh Trương Điềm viết thư Mời Ngài Ra trung lần nữa! chuyến ra trung lần này Ngài ở lại chùa Tây Thiên! Ngôi chùa này do Bà Giám Đốc Lương Minh Tấn hiến cúng để làm cơ sở Đạo và Truyền Đạo Minh sư tại Quảng <?xml:namespace prefix = st1 ns = "urn:schemas-microsoft-com:eek:ffice:smarttags" /><st1:country-region w:st="on"><st1:place w:st="on">Nam</st1:place></st1:country-region>! (ông Lãnh Binh Trương điềm có thọ giáo với Nhà Sư Thạch Động và chuyển giao ngôi chùa này cho Nhà sư! Sau đó Nhà sư Thạch Động thấy đức Thái Lão Trần Đạo Quang là bậc Chân tu nên chuyển thác đạo Ngiệp lại cho Ngài Thài Lão và Nhà sư Thạch Động lên núi tu luyện sau đó biệt tích.)
<o:p></o:p>
Chùa Tây Thiên tọa lạc tại làn Thọ Sơn, Tổng Mậu Hòa, phủ Duy Xuyên Tỉnh Quang <st1:country-region w:st="on"><st1:place w:st="on">Nam</st1:place></st1:country-region>!
Vì vậy Bà cụ Giám Đốc trở thành đệ tử Ngài Thái Lão Trần Đạo Quang và chùa Tây Thiên trở thành ngôi chùa Tam Gia1o Minh Sư đặc biệt nhất ở Quảng Nam để liên lạc với Linh Quang Tự ở Sài Gòn!
Ngôi chùa Tây Thiên để lại ấn tượng cho Nhiều người trong đó có Bà Tham Tường là cháu kêu bà Giám Đốc là bà Ngoại đã cảm tác 1 bài thơ lúc 18 tuổi khi về viếng lại ngôi chùa xưa:
Bước đến Tây Thiên ngỡ Núi Hồng
Cảnh chùa Bà Ngoại phải đây không?
Sau lưng nước đón đưa người Đạo
Trước mặt non che khuất bụi hồng
Hương ngạt thơm tho mùi đạo lý
Chuông rung chuyển động phép thần thông
Người đây cảnh đấy bao tình cảm
Cảnh có bà không cháu tủi lòng!​
<o:p></o:p>
Khoản 10 năm sau tức năm 1924 Ngài được thỉnh ra Chùa tây Thiêng để chứng nhận khoản 20 phật đường do các vị thiên ân lập để phổ độ nhơn sanh như: Phổ Tế Đường, Qua3nh Tế đường, Viên TẾ đường, Vĩnh Tế Đường ….điều đó cho thấy Đạo Minh Sư lúc Bấy giờ sinh hoạt đạo rất mạnh
<o:p></o:p>
Vì Ngài truyền Đạo dưới chế độ cai trị của chính quyền bảo hộ và nam triều gặp không ít khó khăn sau đây là lời phân trần của Ngài trước chính quyền Bảo hộ: “ tôi nghĩ chính phủ ta hay bảo hộ pháp cai trị dân đều muốn người dân lương thiện, biết tôn trọng luân thường đạo lý, tuân theo phép nước, thì chính tôi đây độ dẫn người tu hành thì phải biết thương người, thương vật, không sát hại côn trùng cầm thú, nên tôi mòng rằng chính phủ và quan lớn không giúp đỡ tôi được thì xin đừng ngăn cấm bổn đạo chúng tôi”<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
Ngày 9-9 ất sửu Ngài dự định khởi hành ra Trung hành Đạo thì ngày 8-9 ất sửu quý ông Bộ Tương, Ba Kinh hướng dẫn quý ông Hội Đồng Lê Văn Trung, Đốc Phủ Lê Bá Trang, Vương Quang Kỳ, Cao Quỳnh Cư ….đến trình bày có lệnh của Đức Thượng Đế dạy Ngài Thái Lão!
Giờ Tý ngày 9-9 ất sửu ( 26-10-1925) thiết lập đàn cơ tại Linh Quang Tự, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế tá danh Cao Đài giáng dạy Ngài Trần Đạo Quang nên quy hiệp Cao Đài để tận độ chúng sanh cho kịp kỳ đại ân xá!
<o:p></o:p>
Lệnh truyền đột ngột, nhưng đức Thái Lão kịp hiểu Thiên ý vì trải qua bao năm tu đạo MINH SƯ đọc qua nhiều kinh sách gián bút từ Trung Hoa có nói: “ Lục vận dư niên Thiên Khai Huỳnh Đạo Nhứt Kỳ ….” Và “ Mạc hậu Tam Kỳ Thiên Khai Huỳnh Đạo ..” Ngài có Bạch Hỏi và đều được Đức Thượng đế giải đáp!
<o:p></o:p>
Ngày 15-1 Bính Dần ( thứ bảy 27-2-1926) Ngài Trần Đạo Quang Thọ Mạng Thượng Đế quy hiệp Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
<o:p></o:p>
Ngày 23-9 Bính Dần (29-10-1926) Đức Cao Đài Thượng Đế giáng dạy Ngài làm Chưởng Pháp Phái Ngọc ( Hồi Ký Bảo Pháp Thanh Long Lương Vĩnh Thuật)

Việc Đức Thái Lão Trần Đạo Quang quy hiệp Cao Đài là một sự kiện nỗi bật lúc bấy giờ người khen thì nhiều nhưng chê cũng không ít trong hàng đệ tử của Ngài! Nhưng với đức độ Bồ Tát Ngài giải thích cho toàn Đạo Minh Sư Thông cảm và có nói rõ: những vị nào nhận hiểu kịp thì theo Ngài Qui Hiệp Cao Đài, bèn muốn tự tu cầu Giải thoát thì giữ nguyên đường lối Minh Sư!

sau đó Ngài về Tây Ninh Hành Đạo ít năm sau khoản 1931 thì nội bộ Tòa Thánh Tây Ninh bị Khảo đảo ....lúc này Tòa Thánh bước vào chia rẽ thiệt sự! dù hết lòng vì đạo - Vì Thầy Ngài ngược xuôi để Hàn gắn tình đồng đạo rạn nức nhưng không được, quá buồn lòng Ngài về Hậu Giang Hành Đạo tại đây ngài quen biết nhiều nhân sĩ yêu nước và được Thiêng Linh thu nhận như : Cao Triều Phát, Phan Văn Thiệu....và sau đó được Thiêng Liêng chấp nhận Ngài cùng các hướng Đạo lập nên Hội Thánh Minh CHơn Đạo!

Đàn cơ Ngày 4-1- Đinh Sửu (chủ nhật 14-2-1937) tại Hội Thánh Hậu Giang Đức thượng Đế giáng dạy các Ngài phải ra Trung quy hiệp Minh sư Theo Đạo Cao Đài và hợp sức với các hướng Đạo tại nơi này để mở rộng cơ Đạo Trung Bắc Kỳ, can thiệp với chính quyền để cơ Đạo được dễ giải!
trích đàn cơ:
"Ngọc Hoàng thượng Đế! Thầy các con! Thầy Mừng các con
Đạo Quang, Triều Phát hai con nghe Thầy dạy:
"Đạo Quang con vì Đạo, Vì Nhơn sanh, con Phải thân hành đi đến Trung Kỳ mở cơ quy nguyên hoằng hóa!
"Phát con vì mến Đạo Thương Thầy con phải nhọc nhằn với Đạo, mượn thế để giác thế, lo việc ngoại giao với nam triều. Vậy hai con nghe Thầy dạy:
" Con vì đạo chân trời gốc bể
Con thương đời chi nệ đắng cay
Nghiêng vai gồng gánh đạo thầy
Phổ thông tôn chỉ cao đài chánh chơn
giục đại cổ chiêu hồn trụy lạc
Khai hồng chung cầu đạt vãn sanh
Hai con trọng trách tâm thành
Nhị ngoạt thậm ngũ thượng trình Hưng Trung
Hiệp nhau lại cùng chung Huynh Đệ
Chuyển cơ linh kẻo trễ thời kỳ
Hoằng Khai Đại Đạo Tam Kỳ
Nhơn sanh hưởng ứng đồng quy về cùng!"
và vâng lệng thiên liêng các Ngài Hành Đạo về Trung chuyến đi này các Ngài đã chuyển hóa được rất nhiều hàng ngàn tín đồ Minh SƯ qui hiệp Cao Đài làm nức lòng người mộ Đạo .....




<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
 

dong tam

New member
Cần xem lại đoạn này, có thể người đánh máy bị phóng tâm nên đánh không chính xác!

"Ngày 9-9 ất sửu Ngài dự định khởi hành ra Trung hành Đạo thì ngày 8-9 ất sửu quý ông Bộ Tương, Ba Kinh hướng dẫn quý ông Hội Đồng Lê Văn Trung, Đốc Phủ Lê Bá Trang, Vương Quang Kỳ, Cao Quỳnh Cư ….đến trình bày có lệnh của Đức Thượng Đế dạy Ngài Thái Lão!

Giờ Tý ngày 9-9 ất sửu ( 26-10-1925) thiết lập đàn cơ tại Linh Quang Tự, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế tá danh Cao Đài giáng dạy Ngài Trần Đạo Quang nên quy hiệp Cao Đài để tận độ chúng sanh cho kịp kỳ đại ân xá!

Lệnh truyền đột ngột, nhưng đức Thái Lão kịp hiểu Thiên ý vì trải qua bao năm tu đạo MINH SƯ đọc qua nhiều kinh sách giáng bút từ Trung Hoa có nói: “ Lục vận dư niên Thiên Khai Huỳnh Đạo Nhứt Kỳ ….” Và “ Mạc hậu Tam Kỳ Thiên Khai Huỳnh Đạo ..” Ngài có Bạch Hỏi và đều được Đức Thượng đế giải đáp!

Ngày 15-1 Bính Dần ( thứ bảy 27-2-1926) Ngài Trần Đạo Quang Thọ Mạng Thượng Đế quy hiệp Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ"

Ai có thể phân tích lý giải những chi tiết chưa chính xác ở đoạn này?
 

Hao Quang

New member
có phải thiếu chữ "mùng" không Huynh DT! nếu sai chỗ nào mong HTĐM chỉ giáo! để Q sửa lại!
Chúc HTĐM ngủ ngon!
 

Phụng Thánh

New member
PT s/t và giới thiêu :

LƯƠNG TÂM

· Viết để tưởng nhớ hai Ðấng Hiền Triết của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ:
ÐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG VÀ ÐỨC CAO THƯỢNG PHẨM





TÂM hay là LƯƠNG TÂM là một vấn đề mà về mặt Ðạo người ta đã có nhiều bàn luận đến, nhưng lý thuyết thì vẫn có mà thực hành ít ai để ý đến. TÂM là chi?

Tâm là một nguồn sáng Thiêng Liêng, một điểm linh quang của Ðức Chí Tôn ban bố cho con người để khuyên lơn dìu dắt và soi sáng bước đường đời cũng như bước đường Ðạo của mỗi cá nhân trong kiếp sanh, hầu lúc rời bỏ xác phàm, mỗi nguyên nhân hay hóa nhơn được hoặc qui hồi cựu vị, hoặc thăng đẳng cấp, hoặc bị trừng trị theo Luật Thiên Ðiều.

Dầu cho Thần Thánh Tiên Phật khi xuống thế mang xác phàm thì buổi chung qui được hay phạt, thăng hay đọa đều do nơi Tâm cả, và nếu người được tánh linh hơn muôn vật là nhờ có LƯƠNG TÂM vậy.

Nên để ý là trong các đẳng nhơn sanh, người dầu sang hay hèn, Thánh nhân hay thường nhân, cái tâm của Thiêng Liêng ban cho đều có sự sáng suốt ngang nhau không khi nào chênh lệch.

Vì lẽ đó, nếu mỗi người ai cũng theo thiên lý mà tu dưỡng mà hành động thì không ai hơn ai cả. Xưa Thành Nghiễn bảo Tề Cảnh Công rằng: Thánh Hiền là Trượng phu, ta cũng là Trượng phu ta sợ gì không được như Thánh Hiền. Nhan Hồi cũng đã nói: Vua Thuấn là người nào, ta là người nào, ai theo Ðạo mà làm thì cũng thế cả.

TÂM được sáng suốt thêm hay trở nên mờ tối là do nơi con người biết nuôi nấng, nâng cao nó lên hay là đàn áp làm cho nó bị che lấp mất.

TÂM ở nơi con người cũng như một vị quốc sư ở cạnh một đấng cầm quyền thống trị thiên hạ. Trong khi ta đang ngẩn ngơ trước một sắc đẹp mỹ nhơn hoặc ta đương dùng thẳng trước một món lợi lớn của người đem hiến cho ta đặng dục ta làm chuyện phi pháp, thì một tiếng nói văng vẳng bên tai ta, nghe dịu dàng, chơn chánh và siêu kỳ:

"Không, người không nên động đến sắc đẹp ấy, vì sắc đẹp ấy đã có chủ (hoặc) sắc đẹp ấy là một thứ trái cấm bất khả xâm phạm. Ðộng chạm đến ắt tai họa sẽ đến cho ngươi." Hay là "món lợi ấy là của phi nghĩa, ngươi không có quyền thâu dụng mà làm chuyện bất công. Thâu dụng của ấy, ắt tai họa chẳng nhỏ và danh dự ngươi sẽ bị tổn thương chẳng ít".

Tiếng nói thân yêu ấy là chi? Ðó là tiếng nói thiêng liêng, tiếng nói của lương tâm vậy.

Nhưng khi tiếng nói ấy dứt thì một tiếng nói khác tiếp theo, tiếng nói sau này chẳng phải dịu dàng. Khác với tiếng nói của lẽ phải. Ấy là tiếng kêu gào của xác thịt, của dục vọng, tức là của tà thần.

Tiếng nói ấy lừng lên đánh đổ tiếng nói trước kia: "Mi dại gì mà chẳng nhận món tiền ấy, mi chỉ ra chút công mọn mà đặng lấp đầy những chỗ thiếu thốn của mi. Mi sẽ được ăn mặc sang trọng thiên hạ sẽ thù phụng mi và mi chẳng còn khổ cực nữa".

Hay là: "Hương trời, sắc nước là của chung, dại gì mà chẳng hưởng. Thanh xuân bất tái, nếu bỏ qua chẳng còn dịp nào hay hơn nữa".

Tiếng nói của lương tâm lại nhỏ nhẹ khuyên can nữa và tiếng nói của dục vọng phản đối chẳng vừa.

Rốt cuộc lương tâm thắng dục vọng, đó là Thánh Ðức thắng phàm tâm.

Ta thắng được là nhờ tiếng nói của lương tâm được thích tùng, nhờ ta biết cân phân lẽ phải của đạo lý với sự dục hư của tà thần.

Nếu ta nhu nhược để cho vật dục lôi cuốn đánh đổ cả chơn lý của lương tâm, tất nhiên ta phải bị sa ngã vào đường tội lỗi. Ấy là tinh thần chịu khuất phục vật chất.

Một lần sa ngã cũng chưa phải hại lớn, ngặc nỗi cái sa ngã này lôi cuốn cái sa ngã khác, thất tình lục dục thay phiên nhau đưa đẩy ta đi đến mức đường cùng ; tối tăm ô trược, tức là ta bị đắm đuối giữa vực thẳm hang sâu. Là vì cái sáng suốt thiêng liêng ở nơi mình không khêu lên lại làm cho nó bị lu mờ và bị vùi lấp cho đến chỗ bế tắc. Thì con người lúc ấy đã mất hẳn ánh sáng thiêng liêng và kiếp sống như thế trở nên nguy hiểm cho xã hội.

Trái lại cái tâm được nuôi nấng, được nâng cao, cái tâm của các bậc phi thường như ÐỊCH NHƠN KIỆT đời ÐƯỜNG, QUAN CÔNG HẦU đời HỚN là tâm làm cho những đấng ấy danh vọng xa bay, tiếng tăm lừng lẫy. Họ xem sắc đẹp như cây khô, thị tiền tài như dép rách, đời trong sạch thanh bai từng làm cho kẻ thù nghịch phải khép nép cúi đầu. Vì vậy mà được danh tạc sử xanh, thiên hạ sùng bái. Những câu: Mỹ sắc nhơn gian tối lạc xuân
Ngã dâm nhân phụ, phụ dâm nhân
Nhược tương mỹ sắc tu vong phụ
Biến thể thơ toàn diệt sắc tâm.


Và gương Trung, Can, Nghĩa, Khí há chẳng còn được ca tụng đến nay đó sao?

Những bậc vĩ nhân siêu phàm của non nước Việt như PHAN THANH GIẢN, LÊ VĂN DUYỆT, HƯNG ÐẠO VƯƠNG, NGÔ TÙNG CHÂU, VÕ TÁNH..v..v.... Ngày nay được danh tạc sử xanh là nhờ nơi khí phách anh hùng tâm linh cao thượng, lòng trung quân ái quốc đến thác chẳng dời đổi, mặc thời thế đổi thay, mặc bao nhiêu sóng gió.

Về mặt Ðạo, đối với người đã tầm được lý tưởng cao siêu, cái tâm cần phải giữ cho trong sạch thanh cao. Vì tôn chỉ Ðạo là khêu ngọn đuốc thiêng liêng để dìu đời cho sáng suốt, chẳng khác chi chiếc thuyền từ vớt khách giữa sông mê, đưa người qua biển khổ.

Bên trong đã sẳn cái lý toàn nhiên nơi tâm, bên ngoài nhờ giáo lý cao siêu của Ðạo, người hành đạo có đủ tài liệu phương chước sửa mình và trau giồi hầu treo gương sáng cho người đời noi bước.

Trước khi nhập Ðạo, ta đã từng quan sát, kiếm hiểu lẽ mầu nhiệm sâu sa, cân phân điều chánh lẽ tà, rõ biết rồi ta dọn mình, lập ý cho thành, tâm cho định, mới đến khắc kỹ tu thân, khi ấy người hành Ðạo đã có sẳn chí hướng, đi từ bước một, mỗi bước mỗi dè dặt cân phân và nên mãi đinh ninh rằng người nơi cửa Ðạo phải làm sao cho thoát khỏi thường tình, phải đi ngược với thế sự.

Ðời chuộng sang vinh, Ðạo chuộng khổ hạnh, Ðời ham trược phú, Ðạo giữ thanh bần, lên xe xuống ngựa chốn phồn hoa là cảnh áo bả hài gai nơi tịnh xá, tương dưa thanh đạm chốn thiền môn, để mặc miếng mỹ vị cao lương ngoài quán tục. Giữ được bao nhiêu đức tính ấy người hành đạo bước được vững vàng không dục vọng nào lôi cuốn nỗi.

THÍCH GIÁO: Theo THÍCH GIÁO, con đường đi đến thành chánh quả là: MINH TÂM KIẾN TÁNH. Nghĩa là phải trau giồi bản tâm cho sáng suốt đặng kiến tánh.

KIẾN TÁNH tức là cùng PHẬT đồng tánh thấy sáng đạo nhiệm mầu, các điều vọng niệm thảy đều tiêu tan, sống ở chơn tâm hoàn toàn giải thoát.

Bậc đã được kiến tánh, giữ cõi lòng thật thanh tịnh trở lại với bản tánh thiên nhiên tức là lúc mắt tuy thấy thiên hình vạn trạng trí tưởng nghìn muôn pháp, nhưng tâm vẫn yên tịnh dường như không gì xao xuyến. Lúc ấy bậc kiến tánh được thấy ngọn đèn chơn lý đột nhiên đưa đến sáng rạng lạ thường để chỉ đường dẫn lối đưa đến cõi tâm giới nhiệm mầu.

Ví bằng bản tâm để cho mờ ám vọng động bởi sức quyến rũ bên ngoài thì người tu biết bao giờ kiến tánh mà tầm lối giải thoát.

Vậy mê là chúng sanh, ngộ là PHẬT.

Vì đó PHẬT HỌC cho cái tâm là cái rất nông nỗi, lại đặt cho tâm cái tên là giặc (tâm vi tặc). Phật học dạy xóa bỏ vọng tâm thường lôi cuốn con người vào đường tội lỗi. Nếu không bỏ vọng tâm thì chân tâm diệu minh không hiện phát ra được. Xóa bỏ vọng tâm tức là để cho chơn tâm phát hiện, người tu hành mới thoát khỏi thất tình lục dục hiểu thấu chơn lý và thắng được mọi sự khổ.

THÂN NGHIỆP, Ý NGHIỆP, KHẨU NGHIỆP gọi là tam nghiệp làm cho con người luân hồi từ kiếp này đến kiếp khác. Cứ nghiệp trước tàn, nghiệp sau nối kế tiếp không ngừng, đó là do nơi tâm tạo. Vì tâm động là phát ra tư tưởng, có tư tưởng rồi mới có nói và làm theo.

Thế thì tâm là nguồn gốc sanh điều lành việc dữ, cái máy tạo thành họa phước Thánh phàm, nên Thánh Hiền có dạy rằng: Tam điểm như tinh tượng
Hoành câu tợ nguyệt tà
Phi mao tùng thủ đắc
Tổ Phật dã do tha.


Nghĩa là: Trên ba điểm như ba ngôi sao, dưới một vòng câu như hình nguyệt xế, cánh lông theo ấy được, thành Phật do bởi gì?

LÃO GIÁO: Theo triết học của Ðạo Giáo, Lão Tử rất chú ý đến việc tu thân để cho mình có đủ đức tính kéo lại những lỗi lầm sa ngã của quần chúng.

Ngài nói: Ta sở dĩ có điều lo lớn là vì ta có cái thân, nếu ta không có cái thân thì ta có lo gì?. Có thân tức là có cái tâm, có cái tâm không dễ gì điều khiển và giữ gìn cho trong sạch.

Theo thuyết của Ngài cái thân đáng quý là khi đem nó ra phụng sự cho thiên hạ, khi phụng sự cho thiên hạ cái tâm không còn gì xao xuyến ích kỷ để lo cho mình nữa. Vì lẽ cái tâm hay lừa đảo, hay làm cho con người sa ngã nên theo phép tu thân của Lão giáo, ta phải dứt bỏ những điều ham muốn, những tư tưởng ngông cuồng có thể hại đến tâm tính. Giữ lòng được phẳng lặng bình tĩnh để trông rõ những sự huyền diệu thiêng liêng, tức là lấy cái tâm đè nén cái khí để nuôi nấng tinh thần được cao siêu thoát tục, đó là con đường dẫn đến cơ đắc đạo.

TU TÂM, LUYỆN TÁNH là thuyết của LÃO GIÁO dạy người mộ đạo muốn tầm tiên lánh tục.

LÃO TỬ coi danh lợi là thù của thân, không lấy cái sống vật chất làm hạnh phúc, nên khuyên người đời chỉ nên chú trọng tinh thần. Phương pháp giáo hóa của Ngài không giống các bậc hiền triết khác, vì lẽ ngài không thích chen vai với đời để lấy sự hiểu biết khuyên dạy quần chúng.

Người lý tưởng của Ngài là người sống trong cảnh tịch mịch, cách biệt vời người đời, đóng cửa, rấp ngỏ không giao thiệp với ai, để rèn luyện tâm tánh, trụ vững tinh thần như thế mới gần gũi được với thiên nhiên, quan năng trực giác mới được sáng suốt, tuy không ra khỏi ngỏ cũng hiểu được thiên hạ, không ngó qua cửa sổ cũng biết được thiên đạo.

Người ấy LÃO TỮ gọi là Thánh nhơn.

Trái lại, người chung đụng với thế gian bị tranh đấu về danh lợi, làm cho tâm tánh vọng động càng đi xa càng bị sóng đời lôi cuốn, bản tâm rối loạn, thiên tính càng lu mờ, đó là tự mình tìm lối diệt vong vậy.

Người ta cho LÃO TỮ có tư tưởng yếm thế tiêu cực, hoặc tư tưởng của Ngài là độc thiện kỳ thân hay cá nhân chủ nghĩa. Nhưng xét ra, người học Ðạo nên tùy theo đẳng cấp và trí thức của mình, chọn lọc thuyết nào thuận tiện thi hành cho tâm tánh được nâng cao, tinh thần được cứng rắn. Ngoài ra phương pháp nào quá cao siêu ta chưa với tới được thì để lại cho bậc có quan niệm cao thượng hơn ta thực hành.

KHỔNG GIÁO: Khổng Giáo cho rằng tâm là thần minh của Trời phú cho, nên tâm của ta với Trời là một thể. Mạnh Tử lại cho Tánh là cái bản nguyên thiêng liêng, đối với Tâm vẫn có một. Hễ biết rõ tâm thì ta biết rõ tánh, biết rõ tánh tức là biết rõ trời đất vạn vật.

"TỒN TÂM DƯỠNG TÁNH" là giữ cho mình còn cái tâm hư linh; nghĩa là đừng để cho tự ý che lấp mất và nuôi cho cái tánh được sáng suốt toàn hảo như của Trời đã ban cho ta, tức là biết có Trời và thờ Trời một cách chơn thật.

Cái bản tâm giữ được còn mới thật là lương tâm. Có lương tâm mới có lương năng và lương tri, tức là cái giỏi biết rất tự nhiên, rất mẫn tuệ (người không học mà giỏi gọi là lương năng, không suy nghĩ mà biết gọi là lương tri. Cũng như đứa trẻ con còn ẳm trên tay, không đứa nào là không biết yêu mến cha mẹ, chỉ vì lương tâm còn nguyên vẹn thuần túy).

Theo thuyết KHỔNG GIÁO, người ta ở đời phân biệt nhau ở nơi quân tử hay tiểu nhơn, hiền hay ngu là do người ta giữ cho còn cái tâm hay để cho mất cái tâm. Giữ cho còn cái tâm là đáng bậc Thánh Hiền, bỏ mất cái tâm con người vẫn là một cây thịt biết đi biết chạy mà thôi.

Thầy MẠNH TỬ chú ý nhứt về chỗ tìm lại cái tâm của mình đã để sổ ra mất, vì lẽ người ta để con gà, con chó sổ ra còn biết đi tìm, há đâu để món báu thiêng liêng là cái tâm của mình sổ ra lại không đi tìm hay sao?

Tìm lại cái tâm đã mất tức là sửa mình đó.

Từ bậc vua chúa dĩ chí thứ dân, ai cũng lấy sự học để sửa mình làm gốc. Muốn sửa mình cho ra người có đức hạnh hoàn toàn, trước phải giữ gìn cái tâm cho chính, cái ý cho thành, sau mới cách vật trí tri, nghĩa là tìm hiểu rõ các sự vật và biết đến cho cùng cực của sự biết.

Muốn giữ cái tâm cho chính, sự sợ hãi, sự vui say, sự ưu hoạn, làm cho cái tâm ta chênh lệch xao xuyến vì một khi tâm bị loạn thì mắt không trông thấy, tai nghe không hiểu, ăn không biết mùi, tất nhiên ta chẳng còn phân biệt được tà chánh ngay gian mà xử sự đúng theo đạo lý.

Khi tâm đã chánh, ý đã thành, cái lương tri lương năng của ta trở nên mẫn huệ, xem xét điều gì cũng hiểu rõ đến chỗ nhiệm mầu sâu xa dầu đối phó với cảnh ngộ nào cũng điều hòa và hợp với lẽ phải.

Chừng đó con đường đã dọn sẵn, sự sáng suốt của tâm đã đủ sức dìu dắt ta trong bước tu thân, có còn chi trở ngại nữa.

Việc tề gia, trị quốc, bình thiên hạ cũng do nơi con đường đó mà đạt thành.

Ngày nay ÐỨC CHÍ TÔN khai nền ÐẠI ÐẠO tại VIỆT NAM để cứu vớt nhân loại lần cuối cùng qui tam giáo, hiệp ngũ chi đem chủ nghĩa từ bi bác ái lập nền tảng đại đồng hòa bình.

Ðức Chí Tôn từng dạy chúng ta lập tâm chí thanh cao và noi theo đức háo sanh của Ngài mà phổ độ sanh chúng.

Lúc mới khai Ðạo (1926), mỗi đêm những chức sắc lớn phải đi đến nhà các đạo hữu mới nhập môn đặng làm lễ khai đàn. Một hôm nhiều chức sắc đến khai đàn tại nhà một đạo hữu ở trong một túp lều tranh nơi xóm dân lao động. Ðường đi trong ngõ hẽm trơn trợt vì gặp phải mùa mưa, phần đông chức sắc than phiền dường như rất bực lòng đi đến chỗ không xứng đáng.

Lúc khai đàn, Ðức Chí Tôn giáng cơ ban khen Vị Ðạo Hữu chủ đàn và rầy cả chức sắc sao không hiểu nghĩa vụ của mình đối với Ðạo, nhơn sanh.

Bài thi cho cả chức sắc hiện diện như sau đây: Bạch Ngọc từ xưa đã ngự rồi,
Há cần hạ giới dụng cao ngôi?
Hèn sang trối kệ tâm là quí,
Tâm ấy tòa sen của Lão ngồi.


Từ ấy các chức sắc đi chứng lễ khai đàn nơi tư gia, tỏ ý sốt sắng và không dám câu nệ nữa. Ðức Chí Tôn thường nói với các môn đệ:

"TÂM các con vừa động Thầy đã biết rõ, vì TÂM các con là một phần thiêng liêng của Thầy ban cho, vậy tư tưởng các con Thầy đều biết, khá tìm hiểu."

Do đó chúng ta biết DÂN TÂM tức là THIÊN Ý và theo thể pháp của Ðạo, duy có quyền Vạn linh đối với quyền Chí Tôn mà thôi.

Lúc ÐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG còn tại thế, Ngài có tiếp một bài thi của Ðức Chí Tôn như sau đây: Nghiêng vai gánh vác đạo nhà Nam,
Gắng khổ chìu tâm độ tánh phàm.
Khổ ấy về sau danh phận xứng,
Chăm lo trách nhậm mới gìn kham.


Ngài thường nói với các chức sắc gần gũi với Ngài: "Tuy qua đi hành đạo vất vả cực nhọc nhưng qua vẫn vui lòng, vì đối với Thầy, tâm qua được trong sạch, đối với nhơn sanh tâm qua được thơ thới an vui vì làm tròn nhiệm vụ. Ngoài đời người ta được thưởng công bằng tiền bạc, trong cửa đạo chúng ta được thưởng công bằng sự ban khen phủ ủy của lương tâm.

Những tiếng ban khen ấy đối với qua không lấy vật chi quí báu của đời mua được".

Quí hóa thay lời nói của người Anh cả chúng ta. Ngày nay bậc cao khiết ấy đã về với Thầy rồi, lời nói trên đây còn văng vẳng bên tai của kẻ viết bài này.

Bức tranh xã hội thường ngày vẽ cho chúng ta thấy nhiều chuyện trớ trêu khúc mắc và chỉ cho chúng ta biết rằng đời hiện tại là đời mạt kiếp, nên cang thường đảo ngược, luân lý suy đồi. Người ta đua nhau lăn xả vào vòng trụy lạc, sống một đời vật chất vô nghĩa, vô nhân, vô tâm, vô đạo. Nào con giết cha, vợ giết chồng, nào anh em làm loạn luân thường, nào mẹ bán con vì mối lợi thừa, chồng hiến vợ cho kẻ có quyền để cậy thân dựa thế. Người ta dám giết lẫn nhau vì số tiền một vài trăm đồng hoặc tạo cảnh nồi da xáo thịt vì bát cơm manh áo.

Ðức PHẬT THÍCH CA có giáng cơ như vầy: Lộ vô nhân hành,
Ðiền vô nhân canh,
Ðạo vô nhân thức,
Ta hồ tận chúng sanh!


Ðiền là tâm điền, chỉ nghĩa tâm người ta như miếng ruộng, cần phải cày cấy, gieo giống tốt mới nở bông sanh trái, bằng để u trệ không lo săn sóc, ruộng sẽ bị cỏ chạ cây rừng loán mọc, thành đất hoang vu, chứa những độc trùng hiểm nguy không ít.

Thường ta thấy nơi trường đời người ta mượn cái lốt bề ngoài để lòe quần chúng để che khuất cái tâm khô khan cằn cổi bên trong, đặng chờ dịp lừa phỉnh nhau và sát hại nhau.

TÂM bất chánh trong phạm vi eo hẹp thì làm rối loạn gia đình, tâm bất chánh ở chỗ xử sự xã giao thì gây ác cảm, chác oán thù, tâm bất chánh loán vào xã hội tạo giây oan nghiệt, đưa đến cảnh tội tù, xô đẩy con người vào vực sâu hang thẵm.

Gặp được mối Ðạo mầu, chúng ta rất hữu phước được Ðức Chí Tôn dìu dắt và giáo hóa, chúng ta nên gắng công trau giồi tâm chí hầu nâng cao danh thể Ðạo và thức tỉnh những kẻ sai bước lạc đường.

Ðức Chí Tôn cầm quyền cả càn khôn thế giới, đã từng hạ mình làm hồn ma đặng dìu dắt các môn đệ lúc ban sơ, ta há vì tự trọng tấm thân mà không noi gương của Ngài trong muôn một hay sao?

Có tài thì cái tài rất hữu dụng, mà đức lại càng qúi hơn. Diêu Trì Cung Bát Nương có khuyên dạy về hai chữ tài và đức như sau đây: Tài lấn đức tài mau diệt tận,
Ðức đồng tài, tài phấn khởi thêm.
Mênh mông biển khổ con thuyền,
Ðạo sơ đức kém ngửa nghiêng sóng trần.
Ỹ tài sức cậy thân dựa thế,
Tài càng nhiều càng lụy đến thân.
Tài kia tai nọ luôn vần,
Ðức tài trau luyện đồng cân mới mầu.
Trăm năm một cuộc bể dâu!


Tố Như Tiên sanh là cụ Nguyễn Du dạy đời hai câu bất hủ nầy: "Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài."


Nơi cửa Ðạo, người hành đạo phải làm gương mẫu cho nhơn sanh và muốn lập chữ tâm phải quên được cái "bản ngã" thường tình. Trừ bỏ được bịnh chỉ biết có mình, hành vi nào cũng được trong sạch, khỏi bận tâm lo mất còn thiếu đủ. Trong cảnh hèn sang, vui khổ, phải chia sớt với tất cả bạn đồng hành, sự tương thân, tương ái mới được trọn vẹn.

Lưu Hướng Liệt Nữ truyện Trung Hoa có chép một truyện như sau đây:

"Lúc Xuân Thu, nước Tề cữ binh phạt nước Lỗ. Khi đến chỗ giáp giới, viên tướng chỉ huy binh Tề trông thấy một người đàn bà một tay bồng đứa bé, tay kia dắt một đứa bé nữa. Quân tràn tới, người đàn bà vội bỏ đứa bé đang bồng trên tay xuống, xốc đứa bé đang dắt, rồi hơ hãi chạy trốn vào rừng. Ðứa bé bị bỏ, chạy theo la khóc, người đàn bà cứ lo chạy không ngó lại.

Viên tướng Tề sai quân bắt lại và hỏi:

"Ðứa bé nàng bồng chạy là con ai, đứa bé bỏ lại là con ai?"

- Thưa, đứa tôi bế chạy là con của anh cả tôi, đứa tôi bỏ lại là con tôi. Vì không thể bảo toàn cả hai đứa, nên tôi phải bỏ con tôi.

- Tướng Tề nói: "Tình mẹ con không đau xót sao?- Ai nở bỏ con mình để cứu lấy con của anh là thế nào?"

- Con của tôi là tình riêng, con của anh tôi là "nghĩa công", bỏ con đẻ tuy đau xót, nhưng muốn làm tròn nghĩa công, tôi phải lìa nó mà cứu con anh tôi. Tôi không thể nào mang tiếng "vô nghĩa" mà sống ở nước tôi được.

Viên tướng Tề dừng binh lại, đợi vua Tề đi tới quì tâu: "Nước Lỗ chưa thể đánh được. Quân ta mới tới biên giới, đã thấy một kẻ phụ nhơn ở xó rừng góc núi còn biết chẳng vì tình riêng mà hại nghĩa công huống chi là những bậc quan lại sĩ phu trong nước. Vậy xin kéo binh về là hay hơn."

Vua Tề cho là phải.

Nhờ vậy người đàn bà bảo toàn cả hai đứa bé và sau được Vua nước Lỗ thưởng một trăm tấm lụa và tặng hai chữ "nghĩa cô".

Ðó là tâm lý xử nghĩa của một người đàn bà ở tận góc núi ven rừng nơi trường đời.

Khi người ta bỏ được thuyết "bản ngã" ra ngoài hành động trông ra chánh đáng và cao thượng làm sao!

Nơi cửa Ðạo, chủ nghĩa giác thế độ đời lại cao cả hơn nữa. Nếu tâm vẫn còn chịu khổ để lo cái "của mình" còn hay mất, được hay thua, thêm hay bớt thì phận sự Ðạo làm sao cho trọn?

Ðức CAO THƯỢNG PHẨM có giáng cơ dạy rằng: "Phải giữ thân thể khỏi sa ngã vào sự ràng buộc nào phải cực trí lao thần. Tâm được trong sạch thanh cao, Thần được nhẹ nhàng thơ thới, người hành đạo mới thành hữu dụng cho Ðạo Ðời.

Còn mang lấy xác thân là còn trách nhiệm cho đến ngày thở hơi cuối cùng. Phải tự nuôi tâm chí cho cao thượng, tự bảo đãm cái trách nhậm ấy đặng tự tạo con đường "sống còn" hầu giải thoát cho những kẻ đương "sống mất".

Than ôi! Họ "sống mất" không biết bao nhiêu, thành ra đời loạn, chúng ta có đành chịu kiếp sống mất chăng?

Dưới đây là một bài thi giáng cơ của Ðức Nhàn Âm Ðạo Trưởng: "Tìm Ðạo mà chi khá hỏi mình,
Bến mê mới vững vớt quần sinh.
Vun trồng cội phúc ơn chan thấm,
Giong rủi đường tiên nghĩa tạc gìn.
Tâm chánh nương nhau dìu lối chánh,
Lòng thanh nhờ lẫn lóng hơi thanh.
Thiên cơ tuy hẵn nêu trường khảo,
Lướt khỏi ngàn thu quả đắc thành."


Thánh Giáo của Ðức Diêu Trì Kim Mẫu:

"Ðời hay Ðạo cũng vậy, muốn lập nền tảng cho sự thái bình, phải cần lập tâm chơn chánh đỉnh đạt để gieo sự hòa nhã yêu đương rồi mới gia tề quốc trị.

Thiếu nhân kém đức, tâm chí nông nỗi, chủ hướng mơ màng, chẳng qua tạo cảnh khổ cho nhơn sanh mà thôi. Vậy các con nên trao giồi chữ tâm cho lắm.

Mẹ để ít lời dưới đây cho các con làm chuẩn thằng trong bước Ðạo. Gắng sức trau giồi một chữ TÂM,
Ðạo đời muôn việc khỏi sai lầm.
Tâm thành ắt đoạt đường tu vững,
Tâm chánh mới mong mối đạo cầm.
Tâm ái nhơn sanh an bốn biển,
Tâm hòa thiên hạ trị muôn năm.
Ðường tâm cửa Thánh dù chưa vẹn,
Có buổi hoài công bước Ðạo tầm."


Mấy bài Thánh Giáo trích lục chúng ta đã được đọc qua là những lời châu ngọc, chúng ta nên cố gắng nhớ để làm kinh nhựt tụng.

Trong bước đường tu, dưới bóng từ bi bác ái của Ðức Chí Tôn, ước mong những lời dạy bảo ấy sẽ giúp ích mãy may cho những đạo hữu ham tìm ánh sáng của chơn lý.

MÙA THU NĂM MẬU TUẤT
(Septembre 1958)
 

Phụng Thánh

New member
Cầi xin Đức Thượng Sanh chỉ đường cho đồng đạo tìm đến bài này !

Thuyết về LUẬT NHƠN QUẢ

NHÂN VÍA ÐỨC PHẬT THÍCH CA (Ngày 8/4 Tân Sửu)

Phật Giáo gọi tất cả những thú vui trên đời là Dục Lạc, tức là nguồn gốc của đau khổ.

Vậy muốn hạnh phúc thật, con người không nên chạy theo dục lạc mà phải diệt trừ dục lạc. Trước hết sự tiêu diệt dục lạc phải bắt đầu từ phép TRI TÚC. TRI TÚC là bằng lòng với những gì mình đang có, mình có thể có với sức của mình và trong phạm vi đạo đức.

Người tri túc thì dầu nằm trên đất cũng cho là sung sướng, người không biết tri túc dầu nằm trên đống vàng vẫn thấy chưa đầy đủ.

Vì bởi không biết tri túc, không cượng nỗi với lòng ham muốn cho nên người ta chạy theo dục lạc, làm điều bất chánh gây ra tội lỗi dẫy đầy.

Sự hành động của ta là NHÂN, tức là NGUYÊN NHÂN, sự báo ứng hay là kết quả của hành động đó tức là QUẢ.

LUẬT NHÂN QUẢ là một LUẬT THIÊNG LIÊNG, CÔNG BÌNH không ai dưới thế nầy thoát ra khỏi luật ấy được.

NHÂN QUẢ do nơi chữ Phạn "KARMA" có nghĩa là cái nghiệp hay là hành động.

Khi ta có hành động gì, đó tức là KARMA.

Chúng ta tụ họp nhau để dâng lễ Ðức CHÍ TÔN, đó là chúng ta tạo ra một hình thức KARMA.

Khi chúng ta nói chuyện, khi chúng ta giận hờn, thương xót ai hay ghét ai, hoặc tính mưu định kế chi, đó là chúng ta tạo ra KARMA.

Vì lẽ, khi ta làm một việc gì, ta phải tiêu phí đi một ít nghị lực, sự làm của ta gây một phản động hay là một kết quả tương đương và người hành động phải hứng chịu kết quả đó.

LUẬT NHƠN QUẢ cũng gọi là LUẬT ÐIỀU HÒA hay là LUẬT CÔNG BÌNH, và nếu người ta có hành động nào bất chánh làm cho mất sự điều hòa của Ðạo lý hay là mất sự công bằng thiêng liêng (ví dụ gạt người lấy của, thâu đa nạp thiểu, hại người để lợi cho mình, ỷ thế hiếp cô, mưu mô để làm việc bất chánh v.v...) thì Ðấng Tạo Ðoan sẽ lập lại sự thăng bằng, đem một cái quả để báo ứng vào kẻ đã phạm pháp cho đúng theo Luật quân bình của Trời Ðất.

Bởi đó, mọi sự sanh ra trong đời của chúng ta đều phải có một nguyên nhân kết cấu mà ra.

Cái đời sống của ta hiện giờ giàu sang hay nghèo hèn, liền lạc hay tật nguyền, xinh đẹp hay xấu xa, được yêu vì hay bị ngược đãi, an vui hạnh phúc hay lắm chịu thiên ma bách chiết, cũng đều do ta gây nhân ở tiền kiếp.

Cái nhân ở kiếp trước đã định vận mạng cho kiếp này thì ở kiếp này ta cũng có thể gây những nhân lành để định vận mạng ta ở kiếp vị lai. Thành thử tự ta cả tạo đời sống của ta chứ không có một Ðấng Thiêng Liêng nào định mạng cho ta cả. Buồn vui, cực sướng là do hành vi của mình tạo ra, hễ gây nhân lành thì trả lại quả vui, gây nhân ác thì trả lại quả dữ, trồng hoa được hoa, trồng đậu được đậu, chính ta định vận mạng cho ta mà thôi.

Ví dụ cờ bạc gây ra cái quả thiếu hụt, nợ nần, vì thiếu hụt phải lường gạt hay trộm cắp; trộm cắp gây ra cái quả lao tù. Bây giờ bỏ dứt sự cờ bạc, lo làm ăn lương thiện thì tất nhiên phải được an thân, khỏe trí. Phật Giáo dạy rằng: "Nhất thiết do tâm tạo," nghĩa là tất cả đều do lòng người tạo nên. Người ta tự tạo cho mình từ sự đau khổ hoặc sự hạnh phúc cho đến ngôi vị Tiên Phật chi chi đều do nơi lòng mình cả thảy.

Vì vậy, trăm ban vạn sự trên thế gian nầy đều có nguyên nhân chớ chẳng phải tình cờ mà chẳng phải do một định mạng nào cả. Tự ta làm cho đời ta phải khổ, ta tự trói buộc vào vòng luân hồi thì ta phải tự tháo mở, tự giải phóng cho ta vậy.

Có nhân quả tức là có luân hồi. Vậy LUÂN HỒI là gì? LUÂN nghĩa là bánh xe, HỒI nghĩa là xoay tròn. LUÂN HỒI tức là bánh xe xoay tròn không manh mối, không thủy chung.

ÐỨC PHẬT THÍCH CA thấy chúng sanh cứ sanh rồi chết, chết rồi lại sanh, cứ mãi bị trói buộc trong vòng sanh tử để trả nghiệp quả không thể thoát ra khỏi nên gọi là LUÂN HỒI.

Giờ đây hiểu thấu cái nguyên nhân của sự VAY TRẢ ở cõi đời, tự nhiên ta nhận thức tại sao mà ta sanh ra ở cõi thế, ta từ nơi nào mà đến vậy và đến đây để đi về đâu? Tại sao con người phải khổ đau? Phải rên siết?

Kinh nhơn quả có nói: "Dục tri tiền thế nhân kim sanh thọ giã thị, dục tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị." Nghĩa là muốn biết nhân đời trước xem kết quả đời này, muốn biết kết quả đời sau xem nguyên nhân đời hiện tại.

Mỗi người đều mang vào thân cái quả hay là nghiệp hoặc nhiều hoặc ít. Nếu trong kiếp sanh chúng ta vừa trả quả tiền kiếp vừa tạo nhân lành cho kiếp sau, nghĩa là mỗi người dầu ở trong hoàn cảnh nào đều giữ lòng công bình chơn chánh, thương người mến vật, khắc kỷ tu thân thì trên đời gió bụi này đâu còn trông thấy những cảnh trạng đau thương khốc hại nữa.

Luật nhân quả vẫn mầu nhiệm sâu xa. Có khi nhân ở kiếp trước sanh ra quả đời này, có khi nhân ở kiếp nầy sanh ra quả ở kiếp sau.

Các nhân quả ấy xen lộn hoặc nhập lại thành cái thân tâm và cảnh giới của con người để sắp đặt cuộc thành bại, hư nên, họa phước của mỗi cá nhân một cách công bình mực thước.

ÐẠO LÃO gọi Luật Nhân Quả là CẢM ỨNG. CẢM có nghĩa là xúc, là động hay là hành động. ỨNG nghĩa là đối đáp, dội lại hay là phản động. CẢM ỨNG nghĩa là có sự hành động trước rồi mới có cái sức dội lại hay là sự phản động sau.

Kinh CẢM ỨNG của Ðức THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN khởi đầu như vầy:

"Họa phước vô môn duy nhơn tự triệu, thiện ác chi báo như ảnh tùy hình".

Nghĩa là điều họa hay phước không có ngõ nhứt định, chỉ tại người tự dời đến cho mình, sự dữ lành hai lẽ báo ứng tỷ như cái bóng đi theo cái hình vậy.

Theo kinh CẢM ỨNG, con người thở ra thở vô, hơi thở đều có thông đồng với khí hư vô của Trời, cho nên niệm tưởng vừa phát động tuy người phàm không hay chớ Trời đã rõ thấu.

Vì vậy Ðức THÁI THƯỢNG dạy rằng: Trong lòng vừa khởi tưởng đến việc lành, việc lành tuy chưa làm mà vị thần lành đã theo mình, hoặc trong lòng vừa khởi tưởng đến việc dữ tuy chưa làm ra mà vị thần dữ đã kế bên mình (Phù tâm khởi ư thiện, thiện tuy vị vi nhi kiết thần dĩ tùy chi, hoặc tâm khởi ư ác, ác tuy vị vi nhi hung thần dĩ tùy chi).

Ông TRANG TỬ nói rằng: Nhứt nhựt bất thiện niệm, chư ác giai tự khởi; Một ngày không tưởng đến việc lành, thì mọi việc dữ đều tự nó dấy lên.

NHO GIÁO cũng có luận về luật BÁO ỨNG y như LUẬT NHÂN QUẢ.

Ðức KHỔNG TỬ dạy rằng: Vi thiện giã thiện báo chi dĩ phước, vi bất thiện giã thiện báo chi dĩ họa, Nghĩa là: Kẻ làm điều lành thì Trời lấy phước mà trả cho, kẻ làm điều chẳng lành thì Trời lấy họa mà trả cho.

Lại nữa, Ðức KHỔNG TỬ có dạy một lời thiết thực đáng ghi nhớ là khi Ngài đau, Thầy Tử Lộ xin phép khẩn đảo. Ngài hỏi xưa có làm như vậy chăng? Thầy Tử Lộ trả lời: Thưa có vậy, vì trong Văn Lễ có nói: Ðảo nhỉ vu thượng hạ thần kỳ. Chúng tôi khẩn đảo các Ngài là Chư Thần trên Trời và dưới Ðất. Ðức KHỔNG TỬ mới nói: Khâu nầy đã khẩn đảo lâu rồi, vì bình nhựt thấy lỗi thì cải ngay, thấy lành thì dời ngay. Ðó là ta khẩn đảo thường thường nào phải chờ đến ngày nay đâu?

KINH THƠ dạy rằng: "Thiên tác nghiệt du khả vi, tự tác nghiệt bất khả hoại". Trời xuống họa còn có thể tránh, tự mình gây họa thì không thể sống nỗi.

Ấy vậy, chúng ta đã học Ðạo thì phải tin LUẬT TRỜI rất công minh, lành dữ báo ứng một mảy không sai chạy.

ÐỨC CHÍ TÔN có dạy trong những bài Thánh giáo năm Bính Dần (1926) như sau đây:

"Thầy đến để độ rỗi cho các con là lập thành một trường công quả cho các con nên Ðạo. Vậy đắc Ðạo cùng chăng tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn. Nếu chẳng đi đến trường Thầy lập mà đoạt thủ địa vị mình thì chẳng đi đường nào khác mà đắc Ðạo bao giờ. Các con không tu, không tự lập ở cõi thế này là cái đời tạm của các con thì Thầy cũng không bồng ẫm các con mà đỡ lên cho đặng. Các con làm một việc phải tức là do nơi ý Trời, phạm một nét vạy tà là cải nơi Thiên Luật, phải quấy Thần Thánh, chỉ chép biên, thưởng phạt duy đợi ngày chung cuộc."

Là người trong cửa Ðạo, chúng ta nên gắng lập công bồi đức, gây nhân lành, tránh quả dữ để cho đời tu hành được trong sạch thanh cao mới chẳng uổng một kiếp sanh may duyên gặp Ðạo.

Ðời người qua thắm thoát, thoạt còn thoạt mất như vầng mây nổi, như giọt sương tan. Những cảnh ruột đứt châu rơi hằng diễn ra để đày đọa vày bừa con người giữa chốn sông mê biển khổ. Chúng ta phải quyết tâm thực hiện, phải hồi tâm cải hóa, phải gắng công tu và chỉ có sự tu hành chơn chánh mới giúp ta cởi mở các dây oan trái, chuộc tội tiền khiên để đi trọn vẹn trên đường giải thoát./.

THƯỢNG SANH
 

Facebook Comment

Top