Vì đọc một cuốn sách hay! Nên chia sẻ cùng HTĐM! tiêu đề: “Lời dạy Đức Cao Đài với các vị tiền bối theo mốc lịch sử” chỉ nhấn mạnh những lời dạy của các Đấng với các vị tiền Khai Đại Đạo lúc sinh tiền! nên về tiểu sử HTĐM có thể sưu tầm thêm! Nếu có gì sai mong HTĐM góp ý!
1- Đức Ngô Minh Chiêu
Ngài ngô sau khi thi đổ! vào ngày 23-3-1899 được bổ nhiệm tại sở Tân Đáo sài gòn! Ngài rước song thân về báo hiếu!
Năm nhâm dần 1902 Ngài lên hầu cho một đàn cơ do Chi Minh Thiện chủ trương ở Thủ Dầu Một để cầu thọ cho Thân Mẫu và để biết việc kiết hung của bản thân! Ngài được TIÊN ÔNG cho một bài kệ như sau:
Thủ bôi vị lễ diệt khả thông
Trung dung hữu đạo thị tâm không
Đắc vọng kỷ thụ giã thân du
Minh phong khả đối giữ thành công
Tạm dịch:
Nâng ly dâng lễ mờ đường thông
Giữ đạo thung dung ấy chữ KHÔNG
Việc lạ thỏa lòng thân tạm gởi
Trăng trong gió mát đón thành công
<?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com
ffice
ffice" /><o
></o
>
Theo lời kệ tiêng ông khuyên ngài lo tu sau sẽ đắc đạo!
Ngày 1-1-1903 nhằm ngày 3-12 nhâm dần ngài được đổi về làm việc ở Soái Phủ Sài Gòn! Thời gian này ngài cưới vợ
<o
></o
>
Ngày 1-5 – 1909 nhằm ngày 12-3 kỷ dậu ngài được đổi đi làm Thư ký ở tòa Bố Tân An! cách sài gòn 45km! ngài mướn 1 ngôi nhà và định cư ở đây! Một sự ngẫu nhiên hay tiền định chổ ở của Ngài rất gần chùa Quan Thánh!
<o
></o
>
Ngài có cả thảy 7 người con!
<o
></o
>
Năm Đinh Tỵ 1917 Ngài thi đỗ Tri Huyện tại Sài Gòn nhưng ở lại Tân An để chăm sóc mẹ già!
Ngài khuyên các con: “các con có cơm ăn no bụng, áo quần mặc lành ấm thân đủ rồi, hãy ngó xuống đừng ngó lên mà mỏi cổ”
Ngài khuyên vợ: “Huyện mãn nha môn không mãn, Thuyền dời mà bến chẳng dời” ý nói: làm quan không vĩnh viễn, dặn vợ con không nên hãnh diện mà chỉ xem mình như thường dân”
Đối với mẹ già Ngài hết mực chí hiếu
Ngài làm Tri Huyện ở Tân An môt thời gian thì Thân Mẫu Ngài lâm bịnh! Ngài đến đàn Hiệp Minh ở Cái Khế(Ngoại ô châu thành cần thơ) để cầu thuốc cho mẹ! ơn trên bảo Ngài ăn chay thì mẹ ngài hết bịnh và cho một bài trường thiên:
“Lâm nguyên tích thừa ưa
Nữ môn thánh thị đề vừa thiện căn
Sáu mươi hội điểm linh đằng
Cầu cho mẹ mạnh mới bằng lòng con
Ba ngày trong điểm vuông tròn
Sớ dân cho mẹ điểm son tha rày”
Sau đó nghe lời ăn chay và mẹ ngài hết bịnh!
2 năm sau mẹ Ngài lại bịnh Ngài đến Hầu đàn Hiệp Minh lần nữa! Đức Quan Thánh cho bài tứ tuyệt Ý nói vườn thuốc của Phật tổ bị trốc gốc! bà Ngô Thị Nguyệt còn nhớ 2 câu sau:
:
“Tụy thủy huê lưu thiên bán lạc
Hạn Lâm phong đảo hội tiền phi”
<o
></o
>
Đến năm 1919 kỷ mùi mẹ Ngài qua đời!
<o
></o
>
Qua những lần cầu tiên chữa bịnh cho thân mẫu ngài thấy rõ sự mầu nhiệm của Thiêng Liêng nên lòng tin tưởng Trời Phật của Ngài càng thêm mạnh mẽ. Ngài cùng các ông: Trần Phong Sắc, Đoàn Văn Kim, Lê Kiển Thọ, Nguyễn Văn Vân thành lập nhóm cầu tiên nhằm chữa bệnh cho bá tánh! Trong nhóm chỉ có ông Trần Phong Sắc là ăn chay trường còn lại mỗi ông ăn chay 2 ngày mỗi tháng!
Trong một buổi cầu Tại nhà Ngài một vị Tiên xưng là CAO ĐÀI TIÊN ÔNG! qua đêm sau ông định hỏi lai lịch của ĐỨC CAO ĐÀI thì cơ viết:
“ Cao đài ứng hóa theo lòng chúng sanh
Đố ai biết được cái danh CAO ĐÀI”
<o
></o
>
Sau nhiều đau buồn diễn ra trong gia đình, phần xã hội có nhiều thành phần tham nhũng đầy rẫy ngài quyết định chuyển ra Hà Tiên! trước khi đi Ngài Nói với cô Nguyệt khi ấy mới 15-16 tuổi: “Cha đổi đi Hà Tiên là xứ quạnh hiu như người đi đày”
“anh hùng lâm nạn vô phiền nại
Dũ Lý Văn Vương bất thảm sầu”
“ các con ở lại với mẹ, cha không đem các con theo là cha sợ làm quan đâu có dư giả, còn đem đi theo thì không đủ sức để mẹ con sung sướng, nếu cha dắt đi thì chi cho khỏi động lòng thương xót, dù của hối lộ cho mẹ con thì cái tội cha phải kêu bằng ăn chung mà tội riêng, nên cha mới để mẹ con ở lại Tân An, nếu có ai ăn hiếp thì có quan Chủ Tỉnh can thiệp, còn phần cha thì lo trả nợ nước cho rồi”
<o
></o
>
Ngày 1-3-1920 nhằm ngày 11-1 Canh Thân Ngài đến Hà Tiên! Ngài thường lên núi Thạch Động cầu tiên! có một vị tiên cô xưng là Ngô Kim Liên cho bài thi khuyên Ngài ráng tu hành:
“ văng vẳng nhạn kêu bạn giữa thu
Rằng Trời rằng Đất vẫn xa mù
Non Tây ngoảnh lại đường gai góc
Gắng chí lo thành bậc trượng phu”
“ngần ngần trăng tỏ giữa trời thu
Cái cảnh Tây Phương vẫn mịt mù
Mắt tục nào ai trông thấy đấy
Lắm công trình mới đúng công phu”
<o
></o
>
ở Hà tiên ít lâu, một hôm có thư người bạn ở Phú Quốc là ông Đốc Phủ Đẩu, nội dung không nói rõ. Song ngài xin thiết lập đàn cơ tại nhà ông Lâm Tấn Đức có ông Nguyễn Thanh Diêu, Đốc Phủ Cao Văn Sự, Ông Lâm Tấn Đức làm Đồng tử:
TIÊN ÔNG xưng là CAO ĐÀI cho bài thi:
“ Cao Đài minh nguyệt Ngô Văn Chiêu
Linh lung vạn hộc thể quang DIÊU
Vô thậm Sự Đức nhiệm ngao du
Bích thủy thanh sơn tương đối chiếu”
<o
></o
>
CHIÊU, DIÊU, SỰ, ĐỨC là tên các vị hầu đàn hôm ấy! các vị không biết ý gì! Nhưng ngài thì biết mình có thể đi Phú Quốc được!
<o
></o
>
Ngày 26-10-1920 (15-9 canh thân) Ngài được lệnh ra trấn nhậm Phú Quốc!cảnh trời nước mênh mông, núi non tịnh mịch một khung cảnh rất cần thiết cho sự học Đạo của Ngài! Lý màu nhiệm đức Cao Đài chuyển ngài ra đây nhằm mục đích ấy!
Ngài không học đạo thầy phàm tục vì những người thầy này không thực hiện được đạo lý như ngài đã nhận biết! Ngài quyết tìm Thầy tiên để Học Đạo
<o
></o
>
Một hôm Đức Cao Đài bảo ngài lo tu và ăn chay 10 ngày! Nhưng thời đó ăn chay 10 ngày rất khó khăn! Ngài vẫn giữ 2 ngày trong tháng
Không lâu sao tại đàn cơ ở Quan Âm Tự tiên ông dạy Ngài “ Chiêu tam niên trường trai”
Ngài lấy làm bối rối 10 ngày chưa xong nay Tiên ông dạy phải ăn trường trong 3 năm Ngài bèn Bạch “ bạch Tiên ông, Tiên ông đã dạy thì đệ tử phải vâng, song xin tiên ông bảo hộ đệ tử, chớ trường trai ba năm lâu quá không biết đệ tử có chịu nổi không và xin tiên ông bảo lãnh, nếu đệ tử vâng theo lời dạy thì phải có chứng quả chi mới được”
Tiên Ông bảo cứ theo lời dặn sẽ rõ!
<o
></o
>
Ngài Ngô thọ giáo Tiên Ông khởi sự trường trai học Đạo kể từ ngày mồng một tháng giêng năm Tân Dậu ( thứ ba ngày 8-2-1921) theo TÂM PHÁP BÍ TRUYỀN và Tiên ông căn dặn phải giữ kín bí truyền chừng nào tới thời kỳ KHAI ĐẠO thì tiên ông sẽ dạy!
<o
></o
>
Ngài ăn chay, luyện đạo nhưng cách thờ phượng thì chưa dạy! một hôm tiên ông bảo Ngài phải nghĩ ra biểu tượng gì để thờ! Ngài nghĩ ra chữ Thập! Tiên Ong bảo: đó là dấu hiệu riêng của một tôn giáo đã có từ lâu! Phải suy nghĩ cho ra Tiên ông sẽ giúp sức!
Ngày 14-3 Tân Dậu 1921 Ngài nằm trên võng phái sau Dinh Quận đường Phú Quốc Ngài thấy con mắt hiện ra sáng chói! Ngài bịt mắt lại và nguyện: “ ….Tiên ông bảo phải thờ vậy thì cho biến mất tức thì” lập tức con mắt biến mất! hôm sau ngài lại thấy lần nữa và Nguyện lần nữa và con mắt biến mất!
Từ đó Ngài bạch Tiên ông cho tạc thiên nhãn để thờ!
<o
></o
>
Sự tích thiên nhãn trong đạo cao đài phát nguyện từ đây 1921 nhưng không ai biết rõ tại sao như vậy. Buổi sinh tiền Đức Ngô dạy đệ tử Ngài như sau Nguyên văn:
“ sách nói Tâm thị Nhãn: Thân thể con người có Tâm làm gốc, Tâm là chủ con người, thế người đời kêu là lòng chớ kỳ thực là Tâm”
“tại sao vẽ có một con mắt: mỗi người có một Tâm nên bề ngoài vẽ có một con mắt mà thôi. Hễ mình thấy con mắt đó như thấy Tâm mình, mà hễ người nào hay thấy cái Tâm mình thì mới biết nó ra sao mà kiềm chế,chữa trị cho nó hoàn toàn, hễ người được hoàn toàn thì xa dữ gần lành, gọi là người hiền đức”
“người ta thường nói: tu cho thấy lòng là thấy phật.”
Trời phật không có mắt, hằng xem xét việc tội lỗi của chúng sanh. Vậy mình phải ráng mà giữ mình”
“đức Cao Đài giáng thế truyền Vô Vi Đại Đạo, Ngài muốn cho môn đệ Ngài hiểu ý nên dạy vẽ Thánh Nhãn mà thờ, không dùng hình sắc có tướng.
“Tâm của mình nếu ở nơi tay thì muốn đánh muốn đập, ở chân thì muốn đá muốn đạp, ở miệng thì muốn nói, muốn la, ở nơi khác thì sinh ra nhiều việc khác”
Khi đọc kinh phải ngó Thánh Nhãn, ấy là mình kiềm cái Tâm không cho vọng động xao lãng, Hễ Tâm vọng trí loãn như nhà không chủ, cầu chi không ai chứng”
“con mắt bên mặt là âm, bên trái là Dương,Dương là trời, Âm là đất, nên mình phải vẽ con mắt bên trái”
……….
(Còn tiếp)
1- Đức Ngô Minh Chiêu
Ngài ngô sau khi thi đổ! vào ngày 23-3-1899 được bổ nhiệm tại sở Tân Đáo sài gòn! Ngài rước song thân về báo hiếu!
Năm nhâm dần 1902 Ngài lên hầu cho một đàn cơ do Chi Minh Thiện chủ trương ở Thủ Dầu Một để cầu thọ cho Thân Mẫu và để biết việc kiết hung của bản thân! Ngài được TIÊN ÔNG cho một bài kệ như sau:
Thủ bôi vị lễ diệt khả thông
Trung dung hữu đạo thị tâm không
Đắc vọng kỷ thụ giã thân du
Minh phong khả đối giữ thành công
Tạm dịch:
Nâng ly dâng lễ mờ đường thông
Giữ đạo thung dung ấy chữ KHÔNG
Việc lạ thỏa lòng thân tạm gởi
Trăng trong gió mát đón thành công
<?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com
Theo lời kệ tiêng ông khuyên ngài lo tu sau sẽ đắc đạo!
Ngày 1-1-1903 nhằm ngày 3-12 nhâm dần ngài được đổi về làm việc ở Soái Phủ Sài Gòn! Thời gian này ngài cưới vợ
<o
Ngày 1-5 – 1909 nhằm ngày 12-3 kỷ dậu ngài được đổi đi làm Thư ký ở tòa Bố Tân An! cách sài gòn 45km! ngài mướn 1 ngôi nhà và định cư ở đây! Một sự ngẫu nhiên hay tiền định chổ ở của Ngài rất gần chùa Quan Thánh!
<o
Ngài có cả thảy 7 người con!
<o
Năm Đinh Tỵ 1917 Ngài thi đỗ Tri Huyện tại Sài Gòn nhưng ở lại Tân An để chăm sóc mẹ già!
Ngài khuyên các con: “các con có cơm ăn no bụng, áo quần mặc lành ấm thân đủ rồi, hãy ngó xuống đừng ngó lên mà mỏi cổ”
Ngài khuyên vợ: “Huyện mãn nha môn không mãn, Thuyền dời mà bến chẳng dời” ý nói: làm quan không vĩnh viễn, dặn vợ con không nên hãnh diện mà chỉ xem mình như thường dân”
Đối với mẹ già Ngài hết mực chí hiếu
Ngài làm Tri Huyện ở Tân An môt thời gian thì Thân Mẫu Ngài lâm bịnh! Ngài đến đàn Hiệp Minh ở Cái Khế(Ngoại ô châu thành cần thơ) để cầu thuốc cho mẹ! ơn trên bảo Ngài ăn chay thì mẹ ngài hết bịnh và cho một bài trường thiên:
“Lâm nguyên tích thừa ưa
Nữ môn thánh thị đề vừa thiện căn
Sáu mươi hội điểm linh đằng
Cầu cho mẹ mạnh mới bằng lòng con
Ba ngày trong điểm vuông tròn
Sớ dân cho mẹ điểm son tha rày”
Sau đó nghe lời ăn chay và mẹ ngài hết bịnh!
2 năm sau mẹ Ngài lại bịnh Ngài đến Hầu đàn Hiệp Minh lần nữa! Đức Quan Thánh cho bài tứ tuyệt Ý nói vườn thuốc của Phật tổ bị trốc gốc! bà Ngô Thị Nguyệt còn nhớ 2 câu sau:
:
“Tụy thủy huê lưu thiên bán lạc
Hạn Lâm phong đảo hội tiền phi”
<o
Đến năm 1919 kỷ mùi mẹ Ngài qua đời!
<o
Qua những lần cầu tiên chữa bịnh cho thân mẫu ngài thấy rõ sự mầu nhiệm của Thiêng Liêng nên lòng tin tưởng Trời Phật của Ngài càng thêm mạnh mẽ. Ngài cùng các ông: Trần Phong Sắc, Đoàn Văn Kim, Lê Kiển Thọ, Nguyễn Văn Vân thành lập nhóm cầu tiên nhằm chữa bệnh cho bá tánh! Trong nhóm chỉ có ông Trần Phong Sắc là ăn chay trường còn lại mỗi ông ăn chay 2 ngày mỗi tháng!
Trong một buổi cầu Tại nhà Ngài một vị Tiên xưng là CAO ĐÀI TIÊN ÔNG! qua đêm sau ông định hỏi lai lịch của ĐỨC CAO ĐÀI thì cơ viết:
“ Cao đài ứng hóa theo lòng chúng sanh
Đố ai biết được cái danh CAO ĐÀI”
<o
Sau nhiều đau buồn diễn ra trong gia đình, phần xã hội có nhiều thành phần tham nhũng đầy rẫy ngài quyết định chuyển ra Hà Tiên! trước khi đi Ngài Nói với cô Nguyệt khi ấy mới 15-16 tuổi: “Cha đổi đi Hà Tiên là xứ quạnh hiu như người đi đày”
“anh hùng lâm nạn vô phiền nại
Dũ Lý Văn Vương bất thảm sầu”
“ các con ở lại với mẹ, cha không đem các con theo là cha sợ làm quan đâu có dư giả, còn đem đi theo thì không đủ sức để mẹ con sung sướng, nếu cha dắt đi thì chi cho khỏi động lòng thương xót, dù của hối lộ cho mẹ con thì cái tội cha phải kêu bằng ăn chung mà tội riêng, nên cha mới để mẹ con ở lại Tân An, nếu có ai ăn hiếp thì có quan Chủ Tỉnh can thiệp, còn phần cha thì lo trả nợ nước cho rồi”
<o
Ngày 1-3-1920 nhằm ngày 11-1 Canh Thân Ngài đến Hà Tiên! Ngài thường lên núi Thạch Động cầu tiên! có một vị tiên cô xưng là Ngô Kim Liên cho bài thi khuyên Ngài ráng tu hành:
“ văng vẳng nhạn kêu bạn giữa thu
Rằng Trời rằng Đất vẫn xa mù
Non Tây ngoảnh lại đường gai góc
Gắng chí lo thành bậc trượng phu”
“ngần ngần trăng tỏ giữa trời thu
Cái cảnh Tây Phương vẫn mịt mù
Mắt tục nào ai trông thấy đấy
Lắm công trình mới đúng công phu”
<o
ở Hà tiên ít lâu, một hôm có thư người bạn ở Phú Quốc là ông Đốc Phủ Đẩu, nội dung không nói rõ. Song ngài xin thiết lập đàn cơ tại nhà ông Lâm Tấn Đức có ông Nguyễn Thanh Diêu, Đốc Phủ Cao Văn Sự, Ông Lâm Tấn Đức làm Đồng tử:
TIÊN ÔNG xưng là CAO ĐÀI cho bài thi:
“ Cao Đài minh nguyệt Ngô Văn Chiêu
Linh lung vạn hộc thể quang DIÊU
Vô thậm Sự Đức nhiệm ngao du
Bích thủy thanh sơn tương đối chiếu”
<o
CHIÊU, DIÊU, SỰ, ĐỨC là tên các vị hầu đàn hôm ấy! các vị không biết ý gì! Nhưng ngài thì biết mình có thể đi Phú Quốc được!
<o
Ngày 26-10-1920 (15-9 canh thân) Ngài được lệnh ra trấn nhậm Phú Quốc!cảnh trời nước mênh mông, núi non tịnh mịch một khung cảnh rất cần thiết cho sự học Đạo của Ngài! Lý màu nhiệm đức Cao Đài chuyển ngài ra đây nhằm mục đích ấy!
Ngài không học đạo thầy phàm tục vì những người thầy này không thực hiện được đạo lý như ngài đã nhận biết! Ngài quyết tìm Thầy tiên để Học Đạo
<o
Một hôm Đức Cao Đài bảo ngài lo tu và ăn chay 10 ngày! Nhưng thời đó ăn chay 10 ngày rất khó khăn! Ngài vẫn giữ 2 ngày trong tháng
Không lâu sao tại đàn cơ ở Quan Âm Tự tiên ông dạy Ngài “ Chiêu tam niên trường trai”
Ngài lấy làm bối rối 10 ngày chưa xong nay Tiên ông dạy phải ăn trường trong 3 năm Ngài bèn Bạch “ bạch Tiên ông, Tiên ông đã dạy thì đệ tử phải vâng, song xin tiên ông bảo hộ đệ tử, chớ trường trai ba năm lâu quá không biết đệ tử có chịu nổi không và xin tiên ông bảo lãnh, nếu đệ tử vâng theo lời dạy thì phải có chứng quả chi mới được”
Tiên Ông bảo cứ theo lời dặn sẽ rõ!
<o
Ngài Ngô thọ giáo Tiên Ông khởi sự trường trai học Đạo kể từ ngày mồng một tháng giêng năm Tân Dậu ( thứ ba ngày 8-2-1921) theo TÂM PHÁP BÍ TRUYỀN và Tiên ông căn dặn phải giữ kín bí truyền chừng nào tới thời kỳ KHAI ĐẠO thì tiên ông sẽ dạy!
<o
Ngài ăn chay, luyện đạo nhưng cách thờ phượng thì chưa dạy! một hôm tiên ông bảo Ngài phải nghĩ ra biểu tượng gì để thờ! Ngài nghĩ ra chữ Thập! Tiên Ong bảo: đó là dấu hiệu riêng của một tôn giáo đã có từ lâu! Phải suy nghĩ cho ra Tiên ông sẽ giúp sức!
Ngày 14-3 Tân Dậu 1921 Ngài nằm trên võng phái sau Dinh Quận đường Phú Quốc Ngài thấy con mắt hiện ra sáng chói! Ngài bịt mắt lại và nguyện: “ ….Tiên ông bảo phải thờ vậy thì cho biến mất tức thì” lập tức con mắt biến mất! hôm sau ngài lại thấy lần nữa và Nguyện lần nữa và con mắt biến mất!
Từ đó Ngài bạch Tiên ông cho tạc thiên nhãn để thờ!
<o
Sự tích thiên nhãn trong đạo cao đài phát nguyện từ đây 1921 nhưng không ai biết rõ tại sao như vậy. Buổi sinh tiền Đức Ngô dạy đệ tử Ngài như sau Nguyên văn:
“ sách nói Tâm thị Nhãn: Thân thể con người có Tâm làm gốc, Tâm là chủ con người, thế người đời kêu là lòng chớ kỳ thực là Tâm”
“tại sao vẽ có một con mắt: mỗi người có một Tâm nên bề ngoài vẽ có một con mắt mà thôi. Hễ mình thấy con mắt đó như thấy Tâm mình, mà hễ người nào hay thấy cái Tâm mình thì mới biết nó ra sao mà kiềm chế,chữa trị cho nó hoàn toàn, hễ người được hoàn toàn thì xa dữ gần lành, gọi là người hiền đức”
“người ta thường nói: tu cho thấy lòng là thấy phật.”
Trời phật không có mắt, hằng xem xét việc tội lỗi của chúng sanh. Vậy mình phải ráng mà giữ mình”
“đức Cao Đài giáng thế truyền Vô Vi Đại Đạo, Ngài muốn cho môn đệ Ngài hiểu ý nên dạy vẽ Thánh Nhãn mà thờ, không dùng hình sắc có tướng.
“Tâm của mình nếu ở nơi tay thì muốn đánh muốn đập, ở chân thì muốn đá muốn đạp, ở miệng thì muốn nói, muốn la, ở nơi khác thì sinh ra nhiều việc khác”
Khi đọc kinh phải ngó Thánh Nhãn, ấy là mình kiềm cái Tâm không cho vọng động xao lãng, Hễ Tâm vọng trí loãn như nhà không chủ, cầu chi không ai chứng”
“con mắt bên mặt là âm, bên trái là Dương,Dương là trời, Âm là đất, nên mình phải vẽ con mắt bên trái”
……….
(Còn tiếp)