LỊCH SỬ NGHI THỨC BÁI LẠY
Theo những tài liệu sử còn lưu lại, buổi ban đầu của nền Tân Tôn Giáo Cao Đài các vị Tiền Khai Đại Đạo thuộc Nhóm Phổ Độ còn rất bở ngở với nghi thức hành lễ.
Sau khi Đức Chí Tôn vận chuyển cho hai Nhóm Vô Vi và Phổ Độ gặp nhau vào đêm mùng 9 tháng chạp Ất Sửu (22 Janvier 1926), Ngài Ngô Văn Chiêu đã hướng dẫn cho những người bạn đạo mới về cách thờ phượng Đức Cao Đài, một vài bài kinh và cách bái lạy lúc ban sơ.
Như hiện nay, chúng ta thấy có sự khác biệt trong hình thức “chấp tay” giữa các tín hữu Cao Đài Vô Vi và Cao Đài Phổ Độ. Chư vị tu Chiếu Minh vẫn chấp tay theo Nhị Kỳ còn bên Phổ Độ chấp tay ấn Tý.
Theo thứ tự thời gian diễn tiến của các lời Thánh Ngôn liên quan đến lễ bái, chúng ta thấy lúc ban đầu các đệ tử đầu tiên của Đức Cao Đài Tiên Ông chưa biết đến cách bắt Ấn Tý và cách lấy dấu Tam Quy.
Trong Đạo Sử Xây Bàn, bà Chánh Phối Sư Hương Hiếu có ghi lại đoạn Thánh Ngôn ngày 18 tháng chạp Ất Sửu (31 Janvier 1926) như sau:
“Cư, Tắc, Sang muốn theo anh con vào xem hội Minh Lý?
Kỳ, có con Thầy mới cho ba đứa nó đi... Con chỉ những sự bái quị của Thầy buộc thế nào và cắt nghĩa cho nó hiểu...”
(Anh Phủ Kỳ: những sự bái quị bên Minh Lý lạy đủ 12 lạy, còn bên Tam Kỳ Thầy cho mỗi lạy 4 gật thì 3 lần đủ 12 lạy)”
Như vậy khi ấy, sau khi đi xem lễ bên Minh Lý Đạo, chư vị Tiền Khai Đại Đạo đã thực hiện nghi thức “bái quị” Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế kim viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát như thế nào? Phải chăng chỉ là cách chấp hai tay như bên Phật rồi lạy Trời mà thôi? Lúc đầu cả 2 nhóm Vô Vi và Phổ Độ đều lạy Đức Chí Tôn chỉ có một lạy nhưng gật 12 cái.
Chúng ta thấy hình thức bái lạy của phái Chiếu Minh vẫn được duy trì như lúc ban sơ, có ghi trong Kinh Cúng Tứ Thời phái Vô Vi, như sau:
“(…) thắp năm cây nhang.
Đứng ngay thẳng trước Thiên Bàn:
Xá ngay giữa một xá và niệm Nam Mô Phật, xá bên tay trái một xá và niệm Nam Mô Pháp, xá bên tay mặt một xá và niệm Nam Mô Tăng.
Kế đó quỳ xuống hai tay chấp năm cây nhang ấy để nơi ngực, niệm: Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Niệm rồi xá một xá, đoạn đứng dậy đem nhang cắm nơi lư hương trên Thiên Bàn.
(…) Xong rồi quì trước Thiên bàn lạy một lạy gặt đầu sát đất 12 cái…”
Như vậy, cách lấy dấu Tam Quy đã được Đức Chí Tôn hướng dẫn cho chư vị tiền bối vào khi nào? Lâu nay đây là một câu hỏi chưa có lời giải!
Chúng ta thấy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển không có ghi nhận việc này! Và câu hỏi này đã luôn hiện diện trong đầu của chúng tôi trong suốt nhiều năm.
Theo những tài liệu sử còn lưu lại, buổi ban đầu của nền Tân Tôn Giáo Cao Đài các vị Tiền Khai Đại Đạo thuộc Nhóm Phổ Độ còn rất bở ngở với nghi thức hành lễ.
Sau khi Đức Chí Tôn vận chuyển cho hai Nhóm Vô Vi và Phổ Độ gặp nhau vào đêm mùng 9 tháng chạp Ất Sửu (22 Janvier 1926), Ngài Ngô Văn Chiêu đã hướng dẫn cho những người bạn đạo mới về cách thờ phượng Đức Cao Đài, một vài bài kinh và cách bái lạy lúc ban sơ.
Như hiện nay, chúng ta thấy có sự khác biệt trong hình thức “chấp tay” giữa các tín hữu Cao Đài Vô Vi và Cao Đài Phổ Độ. Chư vị tu Chiếu Minh vẫn chấp tay theo Nhị Kỳ còn bên Phổ Độ chấp tay ấn Tý.
Theo thứ tự thời gian diễn tiến của các lời Thánh Ngôn liên quan đến lễ bái, chúng ta thấy lúc ban đầu các đệ tử đầu tiên của Đức Cao Đài Tiên Ông chưa biết đến cách bắt Ấn Tý và cách lấy dấu Tam Quy.
Trong Đạo Sử Xây Bàn, bà Chánh Phối Sư Hương Hiếu có ghi lại đoạn Thánh Ngôn ngày 18 tháng chạp Ất Sửu (31 Janvier 1926) như sau:
“Cư, Tắc, Sang muốn theo anh con vào xem hội Minh Lý?
Kỳ, có con Thầy mới cho ba đứa nó đi... Con chỉ những sự bái quị của Thầy buộc thế nào và cắt nghĩa cho nó hiểu...”
(Anh Phủ Kỳ: những sự bái quị bên Minh Lý lạy đủ 12 lạy, còn bên Tam Kỳ Thầy cho mỗi lạy 4 gật thì 3 lần đủ 12 lạy)”
Như vậy khi ấy, sau khi đi xem lễ bên Minh Lý Đạo, chư vị Tiền Khai Đại Đạo đã thực hiện nghi thức “bái quị” Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế kim viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát như thế nào? Phải chăng chỉ là cách chấp hai tay như bên Phật rồi lạy Trời mà thôi? Lúc đầu cả 2 nhóm Vô Vi và Phổ Độ đều lạy Đức Chí Tôn chỉ có một lạy nhưng gật 12 cái.
Chúng ta thấy hình thức bái lạy của phái Chiếu Minh vẫn được duy trì như lúc ban sơ, có ghi trong Kinh Cúng Tứ Thời phái Vô Vi, như sau:
“(…) thắp năm cây nhang.
Đứng ngay thẳng trước Thiên Bàn:
Xá ngay giữa một xá và niệm Nam Mô Phật, xá bên tay trái một xá và niệm Nam Mô Pháp, xá bên tay mặt một xá và niệm Nam Mô Tăng.
Kế đó quỳ xuống hai tay chấp năm cây nhang ấy để nơi ngực, niệm: Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Niệm rồi xá một xá, đoạn đứng dậy đem nhang cắm nơi lư hương trên Thiên Bàn.
(…) Xong rồi quì trước Thiên bàn lạy một lạy gặt đầu sát đất 12 cái…”
Như vậy, cách lấy dấu Tam Quy đã được Đức Chí Tôn hướng dẫn cho chư vị tiền bối vào khi nào? Lâu nay đây là một câu hỏi chưa có lời giải!
Chúng ta thấy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển không có ghi nhận việc này! Và câu hỏi này đã luôn hiện diện trong đầu của chúng tôi trong suốt nhiều năm.
Sửa lần cuối: