Phương tu thời tam kỳ phổ độ

dong tam

New member
PHƯƠNG TU THỜI TAM KỲ PHỔ ĐỘ

MỤC LỤC

GIAO CẢM
1. BẢY BƯỚC TRÊN ĐƯỜNG TU TIẾN
2. MÔN TU CĂN BẢN CỦA CAO ĐÀI
3. TÂN PHÁP TAM CÔNG
4. CHÌA KHÓA VẠN NĂNG: “Đạo Gốc bởi Lòng thành, tín, hiệp”
5. NGŨ NGUYỆN
6. LẬP TRƯỜNG TU TIẾN
7. TỔNG KẾT PHƯƠNG TU KỲ BA
 

dong tam

New member
GIAO CẢM

Từ khi Đức Chí Tôn Lập Đại Đạo Tam Kỳ Phố Độ cho đến nay đã gần chín mươi năm, Thánh Ngôn Thánh giáo được các Đấng Thiêng Liêng ban cho qua các Hội Thánh Cao Đài rất nhiều, đến mức Ơn trên gọi là “kho tàng kinh điển”. Trong khối tư tưởng rộng lớn của kho tàng ấy, phương pháp tu hành của người tín hữu Cao Đài là gì? Các Đấng đã giáng dạy từ tổng quát đến chi tiết và đi từ đơn giản cho đến thâm sâu.

Với tinh thần Đại Đạo, không phân biệt bởi hình tướng tôn giáo là các Hội Thánh mà Đức Chí Tôn đã lập ra thích ứng với mọi hoàn cảnh để tận độ chúng sanh. Người tín hữu Cao Đài học và bắt chước theo tình Tạo Hóa, dung nạp tất cả các Thánh giáo không phân biệt nguồn gốc miễn là nội dung chỉ dạy điều hay lẽ phải nên làm. Theo tinh thần đó, chúng tôi sử dụng Thánh giáo của tất cả các Hội Thánh, trong điều kiện có thể của sức học và khả năng sưu tầm tiếp cận, rồi cố gắng sắp xếp lại cho có hệ thống lý luận hầu chuyển các Thánh Ngôn – Thánh giáo thành một pho giáo lý mang tính Đại Đồng hầu đáp ứng cho cả ba trình độ căn trí: hạ, trung và thượng.

Trong tập sách này, chúng tôi sắp xếp lần lượt các đề tài, khởi đầu với bài Thánh giáo của Đức Quán Thế Âm nêu lên sơ đồ tổng quát với “Bảy bước trên đường tu tiến” với bước đầu nhập môn cầu đạo rồi lần lượt qua các bước tiếp theo và đích đến sau cùng là giải thoát. Kế đến bài thứ hai, “Môn tu căn bản của Đại Đạo Cao Đài” gồm hai bài Thánh giáo: một của Đức Đông Phương Chưởng Quản Vô Vi Hiệp Thiên Đài và một của Đức Nhị Trấn Oai Nghiêm Quán Thế Âm. Từ đây, chúng ta bước vào tìm học pháp môn căn bản trong Tam Kỳ Phổ Độ, pháp môn “Tam Công”, hầu như các tín hữu Cao Đài đều biết nhưng đa số lại chưa nắm được những mấu chốt mà Thiêng Liêng đã ban trao!

Qua học hỏi thiên kinh vạn quyển, chúng ta sẽ có được cái nhìn tổng quát, tất cả các tôn giáo đều không ngoài chữ Tâm. Cũng như thế, chìa khóa để mở cửa tâm hồn của mỗi tín hữu chúng ta đồng thời mở cửa Thiên đàng chính là câu kinh khởi đầu cho mỗi thời cầu nguyện:

Đạo gốc bởi Lòng thành, tín, hiệp”. Các đề tài lần lượt, dẫn dắt người tín hữu Cao Đài chúng ta đi trọn con đường Sứ Mạng làm Người, sau cùng được dừng lại ở bài “Kinh Ngũ Nguyện” mà qua đó chúng ta sẽ thấy bóng dáng của Tam Công.

Chủ đề được dùng để khép lại “Phương Tu thời Tam Kỳ Phổ Độ” là đề tài “Thuần chơn vô ngã – thuần túy đạo đức” thể hiện lập trường Đại Đạo, một lần nữa nhấn mạnh đến Công trình tu kỷ hầu đạt đến đích điểm sau cùng trở lại quê xưa.

Trước xây đắp Cao Đài Thánh đức,
Dụng Nam bang làm mức phóng khai;
Dân Nam sứ mạng Cao Đài,
Năm châu bốn bể hòa hài từ đây
.

Ước mong tập sách nhỏ này sẽ mang lại được hữu ích thật sự cho tất cả anh chị em đồng đạo.

Kỷ niệm Rằm tháng 10 Nhâm Thìn 2012
 

dong tam

New member
BẢY BƯỚC TRÊN ĐƯỜNG TU TIẾN

Thường thường, người vào đạo có quan niệm là ăn chay, niệm Phật, tụng kinh, sám hối, hành thiện để nhờ phước huệ Trời ban. Nhưng có mấy ai chịu khó phân tách những giai đoạn tiến triển trong khoảng đời lập thân hành đạo và cũng có mấy ai chịu khó kiểm điểm xem sự tu học mình đã đến trình độ nào.

Do đó nên sự tiến thối, thăng đọa từng ngày một đã xảy ra không biết bao lần mà không hay không biết.

Hôm nay, Bần Đạo phân tách những nét chính của những giai đoạn của đời người tu học để chư hiền đệ muội xem kỹ rồi tự trắc nghiệm bản thân mình, sau đó sẽ thấy rõ công nghiệp đức hạnh trong đời tu của mình đã đến mức nào rồi.
Những giai đoạn đó có thể tạm chia như sau:

1. Là Nhập Môn, nhập đạo hay quy y cũng thế
2. Là giữ đạo
3. Là học đạo
4. Là hiểu đạo
5. Là tu thân lập hạnh
6. Là hành đạo
7. Là Thánh Thiện hay Thánh Tâm hay giải thoát cũng thế


Đây Bần Đạo sẽ diễn tả từng điểm một:
 

dong tam

New member
- Một là NHẬP MÔN: (nhập Đạo hay Quy Y)

Vì muốn xa lánh những điêu ngoa tội lỗi, xảo trá sa đọa của nhân thế thường tình nên chọn một con đường để đời mình lấy đó làm lẽ sống, thích hợp với tâm linh thuận Thiên hòa nhân, nên phải đặt mình vào một nếp sống đạo lý. Đó là động lực thúc đẩy mình phải chọn một đoàn thể đạo đức hay một tôn giáo nào để nhập môn qui y.

Khi nhập môn rồi, đương nhiên tên, họ, lý lịch mình sẽ được ghi vào lịch đạo của tôn giáo đó và chịu theo nếp sinh hoạt của tôn giáo đó từ nội qui đến giáo thuyết, giáo điều. Còn về phần thiêng liêng thì cũng đã được ghi danh tánh vào Thánh tịch hoặc Tiên tịch hay Phật tịch.

- Hai là GIỮ ĐẠO:

Giữ Đạo nơi đây có nghĩa là tôn trọng nội qui luật lệ, giáo thuyết, giáo điều của tôn giáo đó không dám làm trái lại. Nếu nhập môn quy y mà không giữ Đạo, chẳng khác chi một bịnh nhơn đến pháp sư xin sợi niệt, lá bùa về treo trên ngạch cửa hoặc đeo vào cổ.

(Thí dụ: người giữ đạo phải ăn chay, giữ giới cấm, đến chùa thất hàng tháng, không được làm một số nghề như buôn bán ma túy, rượu mạnh, sát sanh hại vật …)

Đức LÝ GIÁO TÔNG có dạy:

Ví như có lần đã dạy: Một quyển sách vần A, B, C… không làm cho học sinh trở nên hàng bác học, nhưng muốn trở nên hàng bác học phải khởi thỉ và trải qua quyển sách vần ấy v.v… Từ cái giả đến cái chân, phải chịu khó suy nghĩ biện luận để áp dụng và thực thi nó cho đúng chỗ, đúng lúc. Chư hiền đệ muội vào cửa đạo tuy là khó, nhưng cũng còn dễ hơn là giai đoạn học đạo, hành đạo và đắc đạo.”
 

dong tam

New member
- Ba là HỌC ĐẠO:

Điều nầy mới bắt đầu hữu ích cho sự mở mang kiến thức. Học đạo từ người nầy truyền pháp cho người khác, hoặc xem kinh điển căn bản về giáo lý để biết được điều nào nên làm, nên nói, nên suy nghĩ và việc nào không nên làm không nên nói, không nên suy nghĩ. Việc nào là thuận Thiên hòa nhân, việc nào là nghịch Thiên phản nhân,v.v… Nếu giữ đạo mà không học đạo, chẳng khác chi một người học sửa máy thu thanh chỉ mua cái máy đem về để đó, hằng ngày đi ra đi vào, đi tới đi lui, trông bề ngoài cái máy ấy mà không chịu khó mở ra các bộ phận bên trong để nghiên cứu hoặc học hỏi, hoặc nhờ người chuyên nghiệp chỉ giúp.

Các Đấng Thiêng Liêng khác cũng dạy:

▪ “Tu phải học hiểu qua giáo lý,
Giáo lý là kim chỉ hướng Nam
;
Cho con nhập Thánh siêu phàm,
Khỏi vòng luân chuyển con tằm nhộng tơ
.”
(Đức Mẹ Diêu Trì)

▪ “Tu không học hỏi tu mù... ...
Tu mà không học ... như mù đi đêm
.”
(Đức Lý Giáo Tông)

▪ "Tu phải học, học để hiểu rõ ngọn nguồn. Hiểu phải hành cho kiên trì nhẫn nại liên tục để phát triển Thánh Tâm, mở mang Thánh Ý, khêu tỏ ngọn đèn từ huệ nội tâm của mỗi người.
Sự tu học tuy dễ mà khó. Dễ ở chỗ không ai bắt buộc gò bó, đóng khung mình trong một luật lệ nghiêm khắc, chỉ do nơi tự giác tự nguyện của mình mà thôi. Hễ vui thì đi chùa thất hoặc đến giảng đường nghe giảng đạo hàng tuần, lúc buồn hoặc biếng lười thì ở nhà ngủ ráng năm ba kỳ không sao... Thế nên người tu học phải tự mình đặt cho mình một kỷ luật riêng tư khắt khe gò bó, vừa với sức mình rồi hằng ngày tuần tự nhi tiến đều đều liên tục
.”

Riêng đối với thành phần đạo hữu trẻ là con em nhà đạo, Ơn trên động viên khuyến khích thanh thiếu niên phải song hành cố gắng học văn hóa, khoa học, kỷ thuật trong đời vừa siêng năng học đạo lý:

Học tập là kiến tạo tri thức để phụng sự xã hội. Tu tập là xây dựng ý thức tinh thần để cải tạo xã hội.

Có học, có tiến, có hành động mới dìu dắt được mình, cộng đồng mình và xã hội vượt qua bóng tối của tầm thường chật hẹp trong đời sống vật chất, trong phạm vi kiến năng. Có tu, có đức, có hiến dâng mới đem đạo vào đời làm rạng danh Thượng Đế. Nhờ đó xã hội trở nên lành mạnh hóa, đi lần đến Thánh đức tại thế gian
. ”
[Đức Cao Triều Phát, CQ Phổ thông Giáo lý 15.10 Tân Hợi (02.12.1971)]

Để đạt được ước vọng đó, trước tiên phải ý thức:

Nếu muốn biểu dương giáo lý Cao Đài là qui Tam giáo nó phải đòi hỏi đến sự học thức rộng rải từ văn chương đến pháp đạo. Phải thông rành luật lệ ngọn ngành trong Tam Giáo rồi còn phải đòi hỏi đến sinh ngữ nữa, ví dụ một khi đoàn hướng đạo Cao Đài đi ngoại quốc đến một sắc dân nào cố nhiên phải đòi hỏi sinh ngữ ấy… Đó các hiền hướng đạo thấy trách nhiệm quan trọng dường bao. Con đường nhứt định phải đến nhưng bao giờ sẽ đến. Vậy thì… sau đây ai là người thiết tha vì chơn lý đạo thì nên tìm học những nhu cầu mà Bần Đạo vừa tạm sơ qua.

Sự học phải đòi hỏi cấp bách nếu thời kỳ này không thực hiện được, thì Thượng Đế buộc lòng phải đem chánh pháp giao cho một dân tộc khác. Rồi chừng ấy con cái Đức Cao Đài hiện tại sẽ ăn năn nhưng quá muộn
.”
[Đức Lý Giáo Tông, Nam Thành Thánh Thất đêm 23.8 năm Mậu Tuất (1958)]
 
Sửa lần cuối:

dong tam

New member
- Bốn là HIỂU ĐẠO:

Điều nầy đã bắt đầu hơi khó rồi. Nói rằng hiểu đạo ai cũng có thể nói được. Nhưng hiểu cho đúng lại là một việc khác. Thế thường, mỗi người hiểu đạo một cách khác nhau vì hoàn cảnh, nghề nghiệp, tập quán, xu hướng, v.v... Chính điều đó là điều rắc rối.

Thí dụ: giải nghĩa câu "Vật dưỡng nhơn"

• Có người nói theo nghĩa là các con vật phải phục vụ cho người nhứt là chúng phải chết để làm miếng ngon, thịt béo nuôi dưỡng con người. Biện luận như vậy để hợp thức hóa các trường hợp sát sanh.

• Có người lại giải nghĩa câu ấy như vầy: "Vật dưỡng nhơn" là ý Thượng Đế muốn an bài cho vạn vật, vì lòng háo sanh. Vật nơi đây có nghĩa là: hoa quả, thảo mộc, ngũ hành để lấy đó biến chế tất cả vật cần thiết để dùng trong mọi trường hợp. Như nhà ở, áo mặc cơm ăn, nước uống, phương tiện di chuyển như thủy lục không bộ hành.

Tất cả phương tiện đó xuất phát tự ngũ hành mà ra, trở thành vật dụng do trí khôn ngoan của Thượng Đế sẵn ban cho mỗi người, từ dân quê mùa dốt nát đến hàng bác học siêu nhân.

• Một thí dụ khác nữa: như con người khôn ngoan, khi bịnh hoạn ốm đau có lương y, bác sĩ, lang ta, lang tây. Hỏi vậy con cá dưới nước, con chim trên rừng, con thú trong hang không có lương y rồi chúng nó tuyệt nòi tuyệt giống hết sao? Chúng vẫn có bản năng tự vệ, bản năng tự tồn mà những bản năng đó cũng từ đức háo sanh Thượng Đế an bài cho chúng thôi. Vật dưỡng nhơn hay vật dưỡng vật phải hiểu nghĩa như vậy. Đừng nên nghĩ khác mà trái với đức háo sanh luật bảo tồn vạn vật của Tạo Hóa.

Thử đem so sánh hai định nghĩa như trên sẽ thấy ngay rằng hiểu thế nào là đúng thế nào là sai.
Cũng như hai tiếng "tự do" phải hiểu nghĩa trong sự tự do của mình đừng vì đó mà làm mất tự do kẻ khác. Như vậy mới thực sự là tự do....

Hiểu đạo nơi đây chẳng những do sự học hỏi từ kinh điển, Thánh Ngôn Thánh Giáo mà lại còn hiểu do nơi tham thiền nhập định phát huệ tâm linh. Đó là hiểu về nội tâm.

Phải là bực tu hành chí chơn chí chánh, lòng được trống không, diệt trừ tư tâm bản ngả, tham vọng, đương nhiên cái chơn từ từ lố dạng và ứng hiện lên để cõi lòng thơ thới, hoan hỉ tiếp nhận là một môn học quí vô giá.

Có hiểu đạo mới biết được vị trí của con người đứng chỗ nào trong tam tài và trong vạn linh, và hiểu mình phải làm và bắt buộc, tự nguyện phải làm những gì để gọi là tùng Thiên Lý, phụng sự Thiên Cơ.
 

dong tam

New member
- Năm là TU THÂN - LẬP HẠNH:

Nếu hiểu đạo mà không tu thân, là người trốn trách nhiệm. Cũng như một đứa bé vừa tập nói chuyện, bảo chúng đọc một trang thơ lục bát. Chúng vẫn đọc lưu loát, nhưng không hiểu nghĩa thế nào.

Tu thân nơi đây là bước đầu cho sự thanh lọc, dọn mình lập hạnh, khắc kỷ tùng đạo. Có tu thân, con người mới mong tránh sự lỗi lầm do những việc thường nhựt chung đụng với đời sống chung quanh. Có tu thân, con người mới mong hoàn thiện để trở nên hạt giống tốt cho thế hệ hiện tại, cũng như thế hệ ở tương lai. Khi tu thân được hoàn thiện rồi bước ra đường đời không gây điều tổn đức thất nhân tâm, tổn nhân ích kỷ.

Các Đấng Thiêng Liêng khác cũng dạy:

▪ “Chỉ có tu thân thoát ngục tù,
Ngục tù thế sự quá âm u;
Tham sân si dục bền vây chặt,
Gươm huệ không mài nhốt vạn thu
.”
(Đức Lê Đại Tiên)

▪ "Về giá trị con người trong hàng tín hữu chức việc hoặc chức sắc, muốn có được phẩm vị cao quí để thể hiện đức độ của người tu, điều cần yếu là phải lập hạnh, vì có hạnh đương nhiên có phẩm, gọi tắt là PHẨM HẠNH.

Bốn tiếng CÔNG ĐỨC PHẨM HẠNH luôn luôn phải được gắng bó nhau để con người tu thân hành đạo có được tác phong đứng đắn, dễ gây thiện cảm kính nể mến yêu với những người chung quanh mình……

Trong lãnh vực tu thân lập hạnh hành đạo, Thiêng liêng thường dạy môn đồ phải gia công hành đạo, vì nhờ có công mới có đức, gọi tắt là CÔNG ĐỨC
"
[Đức Liên Hoa Thánh Mẫu, Thánh Giáo Sưu Tập 1969, trang 214]
 

dong tam

New member
- Sáu là HÀNH ĐẠO:

Hành đạo là bước đầu xây dựng nền tảng âm chất vững chắc cho tòa lâu đài thánh thiện. Nhờ hành đạo mà các hàng Thần Thánh Tiên Phật càng ngày càng được phẩm vị cao siêu.

Tu thân và hành đạo phải gắn liền nhau như gấm thêu hoa. Tu thân và hành đạo cần phải được hỗ tương nhau để tiến hóa. Nếu hành đạo mà không tu thân là thiếu căn bản lương thiện. Nếu tu thân mà thiếu hành đạo thì sự tiến hóa bị chậm trễ không biết ngần nào.

Cùng loài sâu từ con bướm đẻ trứng, trứng nở thành sâu, nếu con sâu ấy có biết chăm sóc nuôi dưỡng sẽ trở thành tằm kéo tơ phục vụ loài người, công quả đáng kể. Cũng loài sâu, nếu không người, không sự chăm sóc nuôi dưỡng thì sâu cũng là sâu không ngày thành bướm
.

Việc Hành đạo lập công bồi đức cũng được các Đấng Thiêng Liêng dạy:

▪ "Sự hành đạo lập công bồi đức là tự cải tiến cho mình trở nên hàng thánh thiện. Ví như người trèo cây hoặc leo núi, đi lên thì thấy bao nỗi khó khăn, nhưng đã trỗi được từng bước một là đã được gần tới điểm cao, nếu quày trở xuống thì rất dễ dàng có nhiều sự giúp sức cho trở xuống.

Thế nên Thánh xưa có nói vài câu đơn giản... "Quân tử ưu đạo bất ưu thực" hoặc "Quân tử ưu đạo bất ưu nhàn" hay "Chí quân tử thực vô cầu bảo, cư bất cầu an". Bởi vì tất cả nhu cầu tạm bợ đã có tạm đủ, không phải bận tâm cho lắm, để có thì giờ thực hành đạo sự là vậy đó
."
[Đức Lý Giáo Tông , Thánh Giáo Nguyên Bổn số 5 tr3]

▪ “Vẫn biết rằng các em có thể ở tại nhà giữ đạo, ăn chay tứ thời tụng niệm, lúc nào siêng thì đi chùa thất, lúc nào không siêng thì nằm nhà, lâu lâu gởi giúp ít nhiều tiền bạc để cho danh mình còn dính líu cũng được, không ai có quyền ép buộc. Như vậy cũng khá hơn những chị em khác không làm được vậy, hoặc những chị em khác nữa lại còn bê bối hơn.

Lời tục thường ví: "Một đám người mù, kẻ chột làm vua". Chị muốn hỏi, các em muốn làm vua chột chăng? Hay là làm một người có đủ nhãn quan hành đạo tế thế an bang nhưng trong phạm vi vô danh, chẳng chức tước, không vị ngôi?

Các em ơi! Một khúc gỗ to, từ dốc cao lăn xuống gây cho nhiều người chết chóc tàn tật cũng là khúc gỗ. Khúc gỗ khác vùi lấp dưới bùn sình, theo tuổi thời gian rất hiền lành không gây hại ai hết. Nhưng cũng có một hoặc những khúc gỗ khác được đem ra cưa bào đục chạm sơn son phết vàng tạc nên hình bạch mã thờ ở đình Thần hoặc tượng hình hạc qui để nơi các Thánh Đường hay tạc hình ông tà ông tướng để thờ các nơi miểu môn am tự hằng ngày có nhơn sanh sùng bái chiêm ngưỡng làm Thần Thánh. Các em muốn mình sẽ là những khúc gỗ nào hở các em?

… Sự lễ bái, tụng kinh, ăn chay, niệm Phật là phương tiện để cho thân được an tâm được định, tánh được thuần, nghiệp quả sớm tiêu mòn để không còn nhiều chướng ngại vật khảo đảo thân tâm các em.

Vì vậy mà chị khuyên các em, ngoài những lãnh vực thường thức hằng ngày ấy, phải thêm công khó giúp đời mới tạo được vốn liếng âm chất ở phần vô vi thiêng liêng vĩnh cửu
."
[Đức Vân Hương Thánh Mẫu, Thánh Giáo Sưu Tập 1969, tr221]

Kết hợp cả hai giai đoạn Tu Thân Lập Hạnh và Bồi Công Lập Đức, chúng ta hãy đọc tiếp đoạn Thánh giáo sau của Đức Liên Hoa Thánh Mẫu:

"Thiêng Liêng thường dạy các môn đồ tu thân lập hạnh bồi công lập đức, nhưng người hiểu được chấp hành được, kể ra cũng hiếm có.

Do đó, trong hàng chức việc chức sắc Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ nói riêng và trong lãnh vực các tôn giáo khác nói chung, thường vấp phải và tự thán rằng tôi đã nhiều tuổi đạo, đã tốn phí lắm của nhiều công, đã hy sinh những thụ hưởng xa hoa phù phiếm để phục vụ đạo lý nhưng sao thường khi lại bị đồng đạo khinh thường gièm pha chỉ trích, đừng nói chi đến kính nể mến yêu.
Đó là tại chưa hiểu và chấp hành được tác phong đạo đức và công đức phẩm hạnh
."
 

dong tam

New member
- Bảy là THÁNH THIỆN, THÁNH TÂM hay GIẢI THOÁT:

Xuyên qua một đoạn đường dài từ ngày nhập môn, giữ đạo, học đạo, hiểu đạo, tu thân cho đến hành đạo là khoảng thời gian chuẩn bị, để kiện toàn cho ngày phát Thánh Tâm, hiện Thánh Ý hành Thánh Sự để đến giải thoát.

Giải thoát nói đây không phải lìa bỏ nhục thể hay trốn lánh nợ đời. Giải thoát nói đây có nghĩa là hàng Thánh thiện bực siêu nhân tuy ở tại cõi phàm gian ô trọc, mà lòng chẳng nhiễm bụi trần ô trọc, luôn luôn đem những kiến thức cao siêu giúp đời độ thế trên đường thánh thiện.
Đó là giai đoạn đắc quả tại trần.

Trải qua sáu giai đoạn đầu, người đạo hữu đã trải qua biết bao nhiêu sự giũa rèn trui đúc từ nhục thể đến tư tưởng, từ ngoại thể đến nội tâm. Có như vậy mới trở nên hàng thượng đẳng chúng sanh.

Đừng bao giờ tưởng rằng mình nhập đạo lâu năm, đếm tuổi đạo làm nhiều để đo số lượng công quả. Đó là sai lầm! Nếu không học đạo, hiểu đạo, tu thân hành đạo, dầu có sống ngàn tuổi giữ ngàn năm thì phàm tục vẫn phàm tục. Đó là chưa kể đến những điều tội lỗi đã gây ra trong một thời gian dài đăng đẳng do tham, sân, si, dục.

Và cũng đừng hiểu lầm câu "tu nhứt kiếp, ngộ nhứt thời", rồi giải đãi không lo tu huệ, tự bào chữa rằng: cứ lo tu phước để nhiều kiếp luân hồi trở lại hưởng cảnh phú quý vinh hoa cho thỏa mãn, rồi một kiếp nào đó tu cũng thành có muộn gì đâu.

THI
Ráng lo tu tỉnh tập từng ngày,
Đừng để buông lung, phải trễ chầy;
Một kiếp tu hành muôn kiếp hưởng,
Phải lo công quả, hạnh cho dày
.
[Đức Quan Âm, Minh Lý Thánh hội, 01.9 Kỷ Dậu, 11.10.1969]
 

dong tam

New member
MÔN TU CĂN BẢN CỦA ĐẠI ĐẠO CAO ĐÀI

Học Đạo để biết phương pháp tu hành của tôn giáo mình đang theo là điều hết sức cần thiết. Tầm quan trọng của việc học đạo càng được nâng cao hơn nữa trong Kỳ Ba Phổ độ này là học để có sự hiểu biết áp dụng cho bản thân đồng thời để góp phần vào nhiệm vụ chung của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Định hướng tổng quát của pháp môn Cao Đài đã được Đức Đông Phương nhắc nhở:

1. Nam Thành Thánh thất, 09 tháng 5 nhuần Tân Hợi (01.07.1971)

Đông Phương Chưởng Quản, (...)

Hiền đệ Chí Thuần đến đây nghe Bần Đạo hỏi.

Hiền đệ! trong môn tu của Đại Đạo Cao Đài, căn bản là môn gì?
(Đạo Huynh Chí Thuần bạch: phổ độ và tu tánh luyện mạng…)

Đúng đấy. Trong Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn khai Đạo với hai môn tu căn bản đó, nhưng thiết yếu hơn là hai đường hướng này đi song song với nhau
.”
 

dong tam

New member
Một thời gian sau, phương hướng tổng quát này lại được Đức Quan Âm giảng giải chi tiết hơn.

2. Vĩnh Nguyên Tự, mùng 3 tháng Giêng Giáp Dần (25.01.1974)

Quan Âm Bồ Tát, Bần Đạo chào chư Thiên sắc, chư hiền sĩ hiền muội trung đàn. Giờ nay Bần Đạo đem đến trần một ân lành bủa khắp địa phương cho mùa xuân được hưởng trọn vẹn. Bần Đạo miễn lễ, chư Thiên sắc, chư hiền sĩ hiền muội an tọa.

Hỡi chư hiền sĩ hiền muội! Xuân về với vạn vật giữa thế đạo khuynh nguy, nhơn tâm ly tán, mặc dầu xuân mang đến cho đời muôn hồng ngàn tía được nẩy nở sinh sôi vươn lên cùng Tạo Vật, nhưng nếu là hàng chơn tu thánh thiện vẫn có một mùa xuân vĩnh cửu trong tâm hồn, luôn luôn hòa mình cùng xuân Tạo Vật để phụng Thiên sự dân, để hoàn thành sứ mạng vi nhân trên cõi thế, nên chi ngoại cảnh không làm lay động được tâm xuân.

Nhìn lại hiện tình thế sự ngày nay rất thảm thương cho vạn linh sanh chúng, đang hưởng một mùa xuân cổ lệ mà tâm nhiều phiền não và ưu tư. Đó là chưa nói đến những người hứng tuyết nằm sương để giữ kiếp sanh tồn hiện tại, thì nào có xuân hạ gì đâu?

Chư hiền sĩ được yên lành gần gũi Thiêng Liêng tu học, mỗi tiết xuân về được ân phước gia ban. Đó không phải tình riêng tư của Tạo Hóa, mà nhờ sự giác ngộ tìm đường cứu rỗi tự thân. Nhưng cũng không vì sự giác ngộ của chư hiền sĩ hiền muội mà Thượng Đế dành trọn hồng ân. Thượng Đế vẫn bủa khắp ơn lành cho vạn vật, vẫn cứu độ vạn sanh, chỉ chờ đợi vạn sanh biết thừa hưởng hồng ân Thượng Đế, quày chơn trở bước, lánh dục vọng tham tàn, khỏi vướng điều nghiệp quả là thọ hưởng gội nhuần ơn Thượng Đế.

Đành rằng công nghiệp nhưng tất cả đều làm lành lánh dữ, biết tránh sự sanh sát giết hại lẫn nhau, biết sợ luật điều vay trả, thì cơ bảo tồn được luân động chở che, dù công nghiệp cũng không đến nỗi vào cơ sàng sảy.

Bần Đạo khuyên chư hiền sĩ hiền muội là những Thiên ân hướng đạo, những thiện nam tín nữ biết hướng thiện tìm sự cứu rỗi ở Thiêng Liêng, hãy vì nghiệp lực của chúng sanh mà chung tay góp ý tạo một con thuyền Bát Nhã bằng tâm linh, bằng đạo đức, để đưa rước gọi kêu, cứu vớt những người đang say mê chìm đắm trong biển dục trầm luân.

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ với mục đích tối thượng cứu cánh nhơn sanh, chư hiền sĩ được làm những tế bào trong thánh thể Đức Chí Tôn, hãy cố gắng làm sao cho xứng phận để thánh thể được phát huy mầu nhiệm, tế chúng độ nhơn trong thời hạ nguơn mạt kiếp.

Chư hiền sĩ hiền muội! trải qua trên bốn mươi năm, Chí Tôn khai đạo tại một đất nước nhỏ bé này, đã từng ban hành kinh điển đạo luật, đã từng cho phát hành Thánh giáo Thánh Ngôn kể ra cũng đủ đầy cho hàng Thiên phong chức sắc nắm đó mà lãnh đạo tinh thần, dìu dắt chúng sanh trên đường tu thân lập hạnh, hành đạo độ đời, và chừng ấy giáo lý cũng đủ cho nhơn sanh làm ngọn đèn soi sáng trên đường tu học.
 

dong tam

New member
Tuy kinh điển Thánh ngôn Thánh giáo có nhiều, nhưng chung qui là dạy cho nhơn sanh có hai đường lối tu thân học đạo:

Một là hướng ngoại hay là Ngoại Giáo Công Truyền. Phương pháp này dạy cho nhơn sanh chấn chỉnh tác phong đạo hạnh nên người có đức độ nghiêm chỉnh đàng hoàng, cốt cách diện mạo hiền nhân quân tử, biết tránh điều ác, biết làm điều thiện, biết giúp đời để lập công bồi đức. Đó là giai đoạn đầu, như đào móng đóng cừ đổ nền chắc chắn cho công cuộc xây dựng tòa lâu đài đạo đức ở giai đoạn thứ hai. Vì giáo lý Cao Đài không đi xa thực tế với đời sống con người thực tại. Sự hiện diện của nhơn sanh tại cõi thế gian nầy không phải là ngẫu nhiên hay vô cớ, mà nó nằm trong cái định luật, trong đức háo sanh của Thượng Đế.

Chư hiền có học đạo, đã hiểu luật ấy Sanh và Thành. Sanh Thành xuất phát từ nhất khí hư vô, lưỡng nghi tượng hình cho cơ sanh hóa. Nếu sanh không được nuôi dưỡng giáo hóa thì mọi vật điều tiêu diệt băng hoại. Do đó khi có vạn vật được sanh, tức thì có phương pháp điều kiện để dưỡng dục giáo hóa cho sinh tồn. Trong các chi tiết của luật thành đó, một là mở đạo, giáo dục cho nhơn sanh noi theo đường chánh, lánh nẻo tà để qui thuận lòng trời hầu an định thế gian. Thế nên người hướng đạo phải thể theo lòng Trời mà thuận tùng Thiên lý, lãnh lấy trách nhiệm trước Thượng Đế trước nhơn sanh.

Biết rằng mỗi một người sanh trưởng tại thế gian nầy đều có mang theo cái duyên nghiệp tốt hoặc xấu đó là lành hoặc dữ trong kiếp quá khứ. Sự mở đạo của Thượng Đế là muốn cho tất cả nhơn sanh đó, dầu trong thời kỳ trả quả cũ, không gây nghiệp mới bằng cách tu thân lập hạnh, bồi công lập đức để mọi người mọi chỗ mọi nơi đều hướng thiện, ăn ở đối xử với nhau cho phải tình phải nghĩa, phải đức phải nhân để trong cõi đời này có một xã hội đại đồng đạo đức, tương thân tương ái tương trợ tương liên với nhau, xem hạnh phúc mọi người như hạnh phúc của mình mà không dám làm gì tổn thương cho tha nhân. Nhìn sự đau khổ thất thoát của người như sự đau khổ thất thoát của mình, mà tìm cách che chở đỡ nâng, giúp an ủi. Nếu toàn thể nhân loại có một xã hội đại đồng đạo đức như vậy thì mọi người hạnh hưởng an lạc thái hòa biết bao!

Đó là mục đích thứ nhứt mà Thượng Đế muốn cho loài người hiểu tận lý và hành tận sự, chớ giáo lý Cao Đài không nhất thiết chỉ bảo người đời đi tìm hạnh phúc trong cõi hư vô vĩnh cửu, chốn niết bàn cực lạc, trong khi nhơn sanh còn nghèo đói bệnh tật dốt nát kỳ thị chia rẽ, người bóc lột người trong cảnh mạnh được yếu thua, bất công xã hội. Nếu phần thân sanh hiện hữu như thế, chắc gì phần tâm linh được mẫn tuệ siêu thoát đâu.
 

dong tam

New member
Còn giai đoạn thứ hai - Giáo lý Cao Đài dạy cho người phải tu theo phương pháp hướng nội. Hướng nội có nghĩa là phải nhìn vào trong. Nhìn vào nội thân để tìm cái chơn như bổn tánh của mình đã bị phủ mờ chìm sâu vào trong bức màn vô minh bởi tham sân si dục, phiền não hỉ ái ố. Phải tìm cho ra chơn như bổn tánh đó mới mong giải thoát kiếp trần lụy giả tạm nầy hầu phản bổn hoàn nguyên trở về cùng Thượng Đế. Đó là phương pháp thiền định công phu.

Bần Đạo phân như thế để chư hiền sĩ hiền muội ý thức rõ rệt đường đi nấc bước của mình trong cửa Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Vì trải qua bốn mươi tám năm giữ đạo, đã có lắm người chưa hiểu rõ, nên đã bị lâm vấp hoặc sụp đổ công trình xây tạo. Trong số người lâm vấp có thể tạm chia làm ba loại:

Loại Thứ Nhứt:- Là chỉ biết hướng thiện nhập môn, giữ gìn trai giới, bốn thời cúng lạy ngưỡng mộ sùng kính Thiêng Liêng, đức tin hướng về Phật Tiên Thượng Đế, nhưng chưa rõ giáo lý Cao Đài là gì.

Hằng tháng đến ngày Sóc Vọng đi đến Thánh Thất hành hương ghi tên vào sổ kỷ niệm hoặc sổ hành trình rằng mình còn giữ đạo và có đi đến thất đến chùa. Như vậy đã cho rằng đủ, không thường sanh hoạt tập thể đạo đức nên ít dịp gặp bạn tốt dắt dìu, lần hồi ngày lại tháng qua uể oải biếng lười không đi chùa thất.

Lẽ cố nhiên không gần bạn đạo thì gần bạn đời, bị lôi cuốn vui đâu chúc đó, không vững lập trường ban đầu còn giữ trường trai, lần hồi thấy hơi trở ngại vì tiệc tùng bên bạn đời mời mọc thường ngày nên giảm xuống còn 10 ngày chay cho tiện. Sau đó thấy 10 ngày chay cũng còn vướng vấp trở ngại nên tụt xuống còn 6 ngày, kế đến 4 ngày và kế đến 2 ngày, và sau nữa không có ngày nào, nhưng lòng cũng hơi sợ, cho nên mỗi tháng đến ngày chay, vào bữa dùng ba miếng cơm lạt. Mấy lúc ngồi vào hàng quán ăn phở hoặc bánh bao mặn trúng vào ngày chay, bất chợt gặp bạn đạo ngồi chung bàn, tuy nhiên cũng còn biết sợ, thấy bạn đâm ra hoảng hốt, lính quýnh xô dĩa xô chén qua một nơi, lấy ly rót nước kêu bánh ngọt liền, v.v…

Vì cơm thiếu canh tu hành thiếu bạn, cũng như thiếu môi trường hành đạo nên mới xảy ra trường hợp đó. Thế nên loại một nầy nên tìm cho mình một hoàn cảnh thuận tiện để khỏi sa ngã, đó là hãy thường đến chùa, đi thất nghe giảng đạo thuyết kinh, để có môi trường buộc ràng chằng chịt mình với tập thể đạo.

Loại thứ hai:- Là loại cực đoan về ngoại giáo công truyền, hằng ngày hàng tháng hàng năm đều siêng năng hành đạo chuyên cần nhưng chỉ biết lo về hành chánh đạo và thỉnh thoảng nói một vài điều đạo lý để tỏ ra mình rành Tân Luật Pháp Chánh cho đàn em út nó nể nó kiên. Kể ra thì loại hai nầy thì khá hơn loại một. Nhờ đó mà khi Chí Tôn mới khai đạo, đã có hàng trăm ngàn người nhập môn tùng đạo trong thời gian ngắn và khoảng thời gian từ 1946 đến 1952, chiến tranh bộc phát toàn cõi Việt Nam, nhóm phe tranh chấp bắt bớ giết hại. Lúc bấy giờ hàng vạn người sợ chết, muốn yên thân nên vào ẩn nơi bóng Đạo Cao Đài, để một là trong nhà có Thiên bàn, tây đen tây trắng mỗi khi bố ráp không làm khó dễ. Hai là giữ được cái giấy chứng nhận rằng mình là tín hữu Cao Đài, không nghịch bên này, không chống bên kia, chỉ biết lo thuần túy về chay lạt lễ bái, nhờ đó được yên thân.

Cho nên lúc bấy giờ có người kêu ngạo cho lớp người ấy là đạo giấy. Tuy nhiên, cũng nhờ công quả của loại hai này đã thâu nhận một số khá đông tín đồ nhập môn và cứu tử hoàn sanh khá đông cho lớp người bị các bên bắt bớ.

Loại thứ ba:- Là yếm thế, độc thiện kỳ nhân để thành Tiên đắc Phật. Đó cũng là cực đoan. Đã từng có những vị tu hành an ổn nhờ tiền căn dày công đức. Tuy nhiên cũng có lắm người lận đận lao đao hoặc nửa chừng đổ vỡ hoặc điên loạn, bởi vì thiếu công quả công trình cho móng nền vững chắc. Vì đó là công phu xây tòa lâu đài bị chinh nghiêng hoặc sụp đổ.
 

dong tam

New member
Chư hiền sĩ hiền muội! Xuyên qua mấy lời Bần Đạo vừa phân chư hiền ý thức chữ Tam Công trong Đại Đạo là có lý. Thế nên Chí Tôn Thượng Phụ và chư Phật chư Tiên hằng dạy khuyên chư hiền sĩ hiền muội lập cho mình một chương trình hành đạo gồm đủ Tam Công: Công Quả, Công Trình và Công Phu Thiền Định. Tuy nói rằng ba giai đoạn, chớ thật ra có thể song hành cùng một lúc tùy khả năng duyên nghiệp và căn trí của mỗi người, đừng quan trọng hóa mỗi vấn đề trọng đại rồi làm không được. Bần Đạo nêu một vài ví dụ trong Tam Công đó.

Như Công Quả: Đừng nghĩ rằng phải có tiền ngàn bạc muôn đem ra bố thí hoặc xây thất cất chùa lên cốt Phật hoặc in kinh gọi đó là công quả. Khi thấy một thế nhân bị cảm gió nhức đầu, chịu khó nhín ra mười phút cạo gió bóp gừng, không gọi là công quả sao? Thấy kẻ bất hạnh đói rách khổ đau, mà bỏ ra một viên thuốc một chiếc áo thừa, hoặc miếng bánh mì nguội dư, không thể gọi là công quả sao?…

Tùy khả năng sở hữu tới đâu làm tới đó, nhưng phải làm với tất cả tấm lòng vị tha bác ái, không gọi công không gọi danh.

Còn về Công Trình - đó là đào luyện trui rèn ý chí phàm tánh bản năng sanh tồn. Đừng nói rằng mình ít oi đạo học về giáo lý làm sao đi thuyết minh truyền giáo giảng dạy đó đây cho đời hướng thiện. Vậy chớ một cử chỉ nhỏ như tha thứ lỗi người, dằn cơn nóng giận để cảm hóa lòng người không gọi là công trình được sao? Gần đến giờ cúng thời hoặc ngày đi chùa thất, nghiệp trần dấy lên nêu đủ lý sự, nào mắc việc này việc kia, tại bần thần uể oải, hãy cố gắng kiên quyết diệt những tư tưởng chủ bại đó, dứt khoát làm liền ý định sẽ được việc ngay. Đó không gọi là công trình được sao? Ngày chay lạt nghe hơi tàu hủ mì căn kho xào phát ớn, nhưng lòng đang thắt thẻo cuộn cào sanh ra thèm bậy, dằn lòng không được rồi đi ăn lén thử cơm, quyết tưởng rằng sẽ có người bắt gặp, ít nữa hai bên vai giác hoặc trên đầu mình cũng có chư Thiên dòm ngó, rồi không dám làm. Lúc đó trong trạng thái tâm hồn có sự giằng co mãnh liệt, nhưng giữ được lập trường chay lạt không sa ngã, đó là thắng được nội tâm xúi quấy. Như vậy không thể gọi là công trình được sao?

Còn về Công Phu đừng nghĩ rằng phải chờ đến bực Thiên phong chức sắc có nhà tịnh đủ tiện nghi hoặc chờ Thiêng Liêng điểm danh cho nhập khóa. Vậy chớ Phật xưa ngồi nơi gốc cây, tấm thân tròi trọi, địa vị bần dân, vẫn giữ được công phu thiền định, còn chư hiền phải làm sao? Một hiền muội mắt hơi làn, xỏ kim không kiếng nhắm vào một chỗ để luồn sợi chỉ cho qua, có khi mất cả mười phút. Trong mười phút đó chắc chắn rằng tâm thanh tịnh không tưởng việc nào khác hơn là luồn sợi chỉ qua kim. Như vậy không gọi là công phu được sao? Nhưng đó là thiền định vô ý thức. Thay vì chăm chú vào mối chỉ lỗ kim, hãy chăm chú vào ngọn nhang, ánh đèn Thái Cực hoặc nhìn chăm chú vào Thiên Nhãn, đừng tưởng việc chi khác hơn, đó cũng là khởi đầu cho động tác công phu thiền định rồi vậy.
 

dong tam

New member
Bần đạo muốn tóm lược: làm thế nào để giữ vững tinh thần vào việc đạo. Chư hiền đói biết kiếm thức ăn, khát biết kiếm thức uống, mệt mỏi biết tìm chỗ ngủ ngơi, nực hầm biết tìm ra hơi gió, thở biết tìm không khí trong lành đó là nguồn sống của xác thân. Tại sao không tìm nguồn sống cho linh hồn hầu cung phụng nhu cầu cho nó?

Chư hiền thử tưởng tượng trong thời chiến, nghe có việc đạo lúc vui thì sẵn sàng chấp nhận làm theo, lúc buồn lười biếng thì nêu lý do tại vầy tại nọ. Thử đang lúc nói tại bị đó, bất thần có một trái đạn pháo nổ bên hè, vội vàng chui liền ẩn núp, nếu cần có thể ôm gói đi cả năm bảy chục dặm đường chớ không còn nói tại nọ tại kia ở yên một chỗ. Cười…! Cười…!


Tóm lại, Ơn trên chỉ dạy cho các tín hữu Cao Đài hãy nương theo nguyên lý “âm dương – tâm vật bình hành” mà song hành Ngoại giáo công truyền và Nội giáo tâm truyền, bằng cách mỗi người hãy lập cho mình một chương trình hành đạo có đủ Tam Công.

Làm được như thế thì tương lai sẽ ngời sáng.

(HẾT bài 2)
 

dong tam

New member
TÂN PHÁP TAM CÔNG

I. KHÁI NIỆM

II. XÂY ĐẮP HẠ TẦNG KIẾN TRÚC CÔNG ĐỨC

1. CÔNG QUẢ
1.1. Định Nghĩa
1.2. Các hình thức Công quả
1.3. Loại hình Công Quả có giá trị cao: PHỔ ĐỘ
1.4. Giá trị của Công Quả

2. CÔNG TRÌNH
2.1. Định Nghĩa
2.2. Các hình thức Công trình
2.3. Giá trị của Công trình

III. TÔ ĐIỂM THƯỢNG TẦNG KIẾN TRÚC CÔNG ĐỨC

1. Định nghĩa CÔNG PHU

2. Các hình thức Công phu

2.1. Công phu ngoại
2.1.1. Cúng tứ thời
2.1.2.“Biến mọi tình thức vọng niệm thành chơn thiện mỹ”
2.1.3. Tĩnh tâm

2.2. Công phu nội: Tâm pháp Đại Thừa

2.2.1. Thiền (Chánh niệm)
A. Tham thiền và Tịnh tọa
B. Thể dục Công phu

2.2.2. Tu Luyện (Vô niệm)
A. Điều kiện căn bản: Trường trai tuyệt dục
B. Hình thức thực hành
C. Không khinh thường Đạo pháp

3. Lợi ích của Công phu
3.1. Giúp tăng trưởng trí huệ
3.2. Là hình thức Công đức to lớn
3.3. Công phu chỉ được thuận lợi và phát huy được tính hữu hiệu khi đã có nền tảng vững chắc
3.4. Giúp phục hồi Tiên Thiên khí, ảnh hưởng đến thời gian đắc vị vô vi

IV. BÍ QUYẾT TU HÀNH CỦA KỲ BA ĐẠI ÂN XÁ

1. Lộ trình thực hành Tam công
1.1. Nền tảng là Công quả
1.2. Công trình xây dựng bộ khung
1.3. Công phu xây cất lâu đài và tô điểm

2. Song Hành Tam Công theo tinh thần “vô vọng”

3. Thước đo giá trị trong Tam Công
3.1. Thước đo giá trị của Công Quả
3.2. Thước đo giá trị của Công trình
3.3. Thước đo giá trị của Công phu

V. TỔNG KẾT TAM CÔNG
 
Sửa lần cuối:

dong tam

New member
Đọc kỹ Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, mặc dầu chúng ta không tìm thấy một từ Tam Công nào trong những lời giáo huấn của Đức Chí Tôn khi mới lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nhưng nội dung về Công quả, Công trình, Công phu luôn hiện diện.

Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc thường nói về Tam Lập: lập công, lập ngôn và lập đức. Những nội dung của Tam Công chính là nội dung của phần Lập Công.

Trong Thánh Giáo của hầu hết các chi phái Cao Đài Giáo, chúng ta lại thấy danh từ “Tam Công” hiện diện mọi nơi. Đến mức ngày nay hễ nói đến phương pháp tu hành của người tín hữu Cao Đài, hầu như mọi người không phân biệt phái chi đều nói đến Tân pháp Tam Công.

Vậy hỏi rằng danh từ Tam Công qua cơ bút Cao Đài đã xuất hiện từ khi nào? Câu trả lời chính xác của việc này xin dành riêng cho các nhà nghiên cứu về văn hóa sử.

Có thể ba nội dung của Tam Công đã bắt đầu có từ năm 1938 trong một lần giáng đàn dạy đạo của Đức Chí Tôn tại đàn Chợ Lớn cho quý vị tu pháp Chiếu Minh.

Công phu con ráng công trình,
Nhớ lời Thầy dạy làm in theo Thầy;
Càng tu thì Đạo càng hay,
Càng dày công quả càng cay mùi đời
.”
[Đức Cao Đài Thượng Đế, đàn Chợ Lớn 18 tháng 3 Mậu Dần (18.4.1938)]

Vấn đề chánh yếu là mỗi tín hữu Cao Đài hãy tìm hiểu, nắm vững những mấu chốt ý nghĩa của mỗi loại Công và cố gắng thực hành cho rốt ráo Pháp Môn Tam Công, tùy theo mức độ hiểu biết của mỗi người hầu đạt kết quả tốt nhất trên đường bồi công lập đức và đóng góp vào sứ mạng chung của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Đức Quan Thế Âm có dạy:

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, chư hiền đệ muội không có cái pháp Ba La Mật, nhưng thay vào đó cái pháp Tam Công cũng đầy đủ lắm rồi. Thực hành được Tam Công là chứng được Đạo quả mà Phật cho là Bồ Tát Hạnh.”
[Đức Quan Âm, Thánh thất Tân Định, 02.9 Tân Hợi (20.10.1971)]
 

dong tam

New member
I. KHÁI NIỆM:

- Là pháp môn tu hành của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Tam Công gồm: Công quả, Công trình, Công phu. Điểm chung của cả ba là chữ CÔNG.

- Chữ Công bao gồm 2 ý nghĩa chánh: một là “công sức”, hai là “chung”.

Thượng Đế đã đặt để cho con cái thân yêu của Ngài một con đường bằng phẳng yên vui, đó là hành đạo phục vụ nhân sanh, đó là đem lại sự yên vui cho đời. Đã lo cho nhơn sanh là lo cho mình rồi đó. Phương pháp tu Tam Công trong Đại Đạo có, chư hiền tìm đâu xa xôi cho rắc rối cõi lòng. Công phu, công quả, công trình, công nào cũng đứng đầu bằng chữ công. Phải tự lực cánh sinh, tự tu tự tiến. Thiên nan vạn nan mới đắc thành quả vị...”
[Đức Như Ý Đạo Thoàn, Vĩnh Nguyên Tự, 15.3 Bính Thìn (14.04.1976)]

Cho dù thực hành loại Công nào đi nữa cũng đều phải hướng về đối tượng chung là “chúng sanh” và gắng sức “gia công” thực hiện.

Thế Tôn hôm nay cũng mừng thấy chư thiện nam tín nữ trong Đại Đạo so sánh lại với những đệ tử của Thế Tôn khi xưa trong hàng Thinh Văn, Duyên Giác cùng Bồ Tát thì chư thiện tín ngày nay đáng đứng vào hàng Bồ Tát, vì vừa tu thân vừa lo cứu độ nhơn sanh.

Còn hàng Thinh Văn Duyên Giác chỉ tự tu tự độ lấy thân thôi. Chỉ có hàng Bồ Tát mới là dắt dìu nhơn sanh đồng tu học trên đường đạo hạnh.

Thế Tôn so sánh lại giáo hội của Thế Tôn khi xưa với Hội Thánh của Đại Đạo thời nay, Thế Tôn rất khen chư thiện nam tín nữ đáng liệt vào hạng hàng Bồ Tát là lo cứu độ dẫn dắt nhơn sanh đó
.”
[ Đức Thích Ca, Tiên Thiên Thánh Huấn quyển XI xb 1961 trang 15]

- Trong Tam Công có thể nào chúng ta chỉ cần thực hiện một hoặc hai Công mà thôi chăng? Ơn Trên có dạy:

Vậy Tôn Sư thí dụ qua cho môn đồ tường. Nếu chư môn đồ đạt thành đạo cả thời bản thân phải đứng vững, thể phách linh hồn vững vàng thì linh hồn kia mới nương dựa vào, hầu bước lên nấc thang cao thượng.

Muốn cho tinh thần được kiện toàn, chư môn đồ hằng ngày phải công phu luyện tập, công quả điểm tô, công trình phổ hóa. Tam Công song hành thời kết quả chư môn đồ đạt đặng rất dễ dàng. Vậy buổi hạ kỳ Tôn Sư thọ sắc hạ trần, hướng dẫn chư môn đồ trên bước đường luyện tập minh triết hầu đạt thành ngôi vị
.”
[Đức Lê Sơn Thánh Mẫu, ĐẠO LÝ 90 tr53; Thánh Tòa Ngọc Kinh - Bạch Y Liên Đoàn; 15.02 Quý Sửu (1973)]

- Tuy cần phải song hành cả ba Công, nhưng với đại đa số tín hữu Cao Đài tu theo đường hướng “phổ độ” thì phương án thực hành phải theo qui luật “tiệm tiến” đi từng bước từ thấp dần dần lên cao. Vậy loại hình Công nào là nền tảng, cần phải chú ý bồi đắp trước tiên?
 

dong tam

New member
II. XÂY ĐẮP HẠ TẦNG KIẾN TRÚC CÔNG ĐỨC:

Chúng ta tham khảo đoạn Thánh giáo sau của một vị tiền bối ở Thiên Trước – Ô môn Cần Thơ:

Tệ Huynh tự xét mình: Công phu chẳng có là bao! Nhờ có Công quả thỉ chung và Công trình gắn bó tu hành với tấm lòng bất thối chuyển, một dạ chí thành, cho nên mới được hưởng đặc ân đó!...

Chư Huynh Tỷ Đệ Muội ráng làm Công quả để có nền tảng vững chắc mà giải trừ nghiệp lực tiền khiên, hầu không làm trở ngại bước đường tu tiến. Tệ Huynh đã có Tam Công như vậy đó
…”

Như vậy, phải chăng Công Quả và Công Trình là hai thành phần nền tảng của pháp môn Tam Công?

1. CÔNG QUẢ:

1.1. Định Nghĩa:

Công quả là làm bất cứ điều gì miễn mang lại hữu ích cho chúng sanh
, hoặc ở mặt đời sống (vật chất, tinh thần) hay ở mặt tâm linh.

Đức Quan Âm dạy:

Công Quả nơi đây đừng quan niệm chỉ gò bó trong phạm vi chùa thất, Hội Thánh Tòa Thánh mà gọi là công quả cho Thiêng Liêng để đổi phần cứu rỗi.

Công Quả nơi đây phải quan niệm về nhân sinh Thế đạo, đem mọi hành động cử chỉ đạo lý áp dụng vào đời sống thường nhựt giữa con người và con người với nhau. Hãy đối xử với nhau cho phải tình nghĩa hiếu trung liêm sỉ chánh chơn.

Công quả lo giúp đời trên mọi phương diện trong đời sống thường nhựt. Lo cho người tức là lo cho mình, giúp người đời tức là giúp cho mình. Công quả cũng là gây tạo được nhân lành quả tốt về âm chất mà đó là nêu gương sáng đạo đức cho kẻ khác cảm hóa mà làm theo
.”
[Đức Quán Thế Âm, Minh Lý Thánh Hội; 01.3 Kỷ Dậu (1969)]

1.2. Các hình thức công quả:

Phải lập công bồi quả. Lập công là phổ truyền Đạo Lý làm gương soi cho đời hướng vào con đường Đạo. Bồi quả là tạo nên hình thức như xây dựng Thánh đường, tạo cơ quan thiện từ dụng chí hy sinh với thời gian tùy tài lực, nhơn lực để tế trợ đồng nhơn. Như thế liệt vị bắt lên nấc thang để ngày mai hậu.”
[ĐẠO LÝ 109; tr31; Tam Thanh Bửu Điện; 08.09.Giáp Dần (1974)]

Công quả có thể được làm qua nhiều hình thức như:

- Giúp ích bằng sức lực:

- Giúp ích Vật Chất
:

Ái, thủ, hữu” có nghĩa là: ưa thích, nắm giữ và sở hữu.

Cái mà tuyệt đại đa số mọi người, theo tập quán, đều cố sức có được là sở hữu tài sản. Hễ có một rồi thì lại muốn tăng lên gấp đôi gấp ba. Cho nên “bố thí” là hạnh đầu tiên mà giáo lý nhà Phật khuyên tập thực hành.

Đức Mẹ có dạy:

Các con biết lo cho kẻ khác chính là tự lo cho các con đó. Đồng tiền bát gạo đem để vào chỗ đúng nhân nghĩa không mất đâu con.

Ngược lại sản nghiệp dầu to lớn đến đâu, nếu nó có bởi việc làm thiếu đạo đức mà ra thì của Thiên rồi cũng hoàn về cho địa
.”

- Giúp ích bằng Tinh Thần và Tâm Linh:

Công việc hành đạo lại đắc giá hơn về phương diện tinh thần, vì mọi hành động của con người đều do nội tâm xuất phát.

Nếu đem đạo cải tạo tư tưởng con người thì những thói hư tật xấu, những điều độc ác thất đức bất nhân sẽ bị tiêu diệt ngay từ trong trứng nước ở nội tâm, thì còn đâu mà bộc phát những hành động.
Hơn một lần, Bần Đạo có nói rằng:

Bố thí thực phẩm cho người đói lòng là một nghĩa cử từ thiện có phước đức công quả, nhưng bố thí lời đạo đức để giác ngộ người đói kém về mặt tinh thần lại càng phúc đức công quả trọng đại hơn
.”
[Đức Lý Giáo Tông, Th tịnh Ngọc Minh Đài, 23.12 Kỷ Dậu (30.01.1970)]
 

dong tam

New member
1.3. Những loại hình Công Quả có giá trị cao:

Chúng ta hãy tham khảo một trường hợp điển hình của một đạo tỷ hành đạo ở một Thánh tịnh tại Lái Thiêu–Bình Dương.

TẢ QUÂN - Lão mừng Thiên mạng liệt vị trung đàn. Giờ chuyển Thần Cơ xuân nhựt, Lão mừng chung trung đàn, tiếp hộ điển Chơn linh nhập đàn. Thiên mạng liệt vị thành tâm tiếp ứng. Lão xuất ngoại hộ cơ. – Thăng -
THI
Huỳnh tuyền rời khỏi cảnh trần gian,
Thị giã đua chơn cõi thế tàn;
Khác được xá ân hồi cảnh báu,
Lai trần hội diện trước Tam Ban.

Huỳnh Thị Khác, tôi mừng Thiên mạng, mừng hiền phu, mừng huynh tỷ đàn tiền an tọa. Cho phép em đôi lời lưu lại.

Hạnh ngộ thay! Hân hạnh thay! Cảnh vật trần gian, con người chia ra nhiều giai cấp, từ sang hèn - nghèo giàu chen lấn, nhưng khi bỏ xác phàm rồi thì vào cảnh thiên nhiên không còn như thế.

Như tôi lúc tại trần chỉ có tâm không mà thôi, tiền tài cũng thiếu, sản nghiệp cũng không, học hành dốt nát, chỉ nghe theo tiếng đọc của người mà in vào tâm khảm. Chỉ nhớ Đức Mẫu Từ, đến giờ chung qui tâm còn tưởng niệm. Nhờ thế mà đạt được quả lành. Trong bao nhiêu ngày vắng mặt như tôi đã tường trong cảnh ấy, miễn lòng chí thành của kiếp tu hành thì vị ngôi cao cả không phân biệt như ở trần gian.

Giờ chung qui trước sự cấp bách của tình đời, lưu lại cho hiền phu một vết đau thương lo lắng.
Đồng chung nhờ huynh tỷ, đệ muội táng trợ để lấp dấu thi hài. Giờ đây tôi cúi đầu tạ những ân nhân bảo trợ. Đôi lời gọi nhắc. (…)

Vậy thời giờ rất ít, linh điển chưa thuần, chỉ báo hỷ làm gương để cho huynh tỷ ráng trau giồi, ngày kia mọi người đều được vận chuyển ngọn linh cơ bày tỏ.

Vậy cúi đầu từ giã Thiên mạng cùng huynh tỷ đệ muội trung đàn, giã từ ngọn bút.- Lui
-

Đúng một năm sau, chơn linh đạo tỷ lại được phép giáng đàn báo tin mừng đã đắc quả vào hàng Thánh vị.

HIỀN hậu tu hành đắc quả chơn,
NHƠN tâm hèn hạ có đâu sờn;
THÁNH minh chuyển bút nơi đàn nội,
NỮ Đạo tranh giành quả thiệt hơn.

HIỀN NHƠN THÁNH NỮ tự Huỳnh Thị Khác - Mừng Thiên mạng chư đạo tâm cố hữu trung đàn an tọa.

Giờ hội điển, luật đại xá ân triều Nam hạnh hưởng, Tệ Nữ chuyển linh cơ điểm lại báo tin mừng cho chư huynh tỷ trung đàn bạn đạo. Trước phàm thế, Tệ Nữ vẫn là một trong phần thấp hèn nghèo kém dốt học, thiếu đức tính, chỉ có con tâm cương quyết lo lập công bồi quả. Giờ linh điển xuất nhục thân thọ sắc non Thần tu luyện đạt vị Thánh Nữ, báo tin mừng trung đàn Tam cảnh, hiền huynh tường chăng?

Vậy mừng thay, ngày xuân hội ngộ. Thiên mạng thành tâm tiếp lịnh. Tệ Nữ xuất cơ. - Thăng
-
 

Facebook Comment

Top