Mai_hanh xin nêu sơ lược một chân dung để minh họa cho chủ đề trên. Đó là chân dung cố phối sư Thái Phẩm Thanh.
Cố phối sư Thái Phẩm Thanh tên thật là Mai Diệu quê ở Bình Nam, Thăng Bình, Quảng Nam. Thưở sinh thời ông luôn nghĩ nếu không làm quan, thì cũng đi tu để giúp đời. Song nếu làm quan thì cũng chẳng giúp được nhiều vì vậy ông quyết tâm xuất thân hành đạo.
Nhà ông có một dãy bàn ghế để tiếp tăng đãi chúng (chiêu hàn đãi sĩ ),ông rất thương người, thường xuyên giúp đỡ người khác từ lời ăn tiếng nói cho đến điều kiện vật chất. Ông đang bưng chén cơm ăn mà thấy hoặc biết người nào đó đang đói ông sẽ nói dối rằng no quá ăn không nổi nữa và sai con đem cơm đến cho người đó ăn. Các con ông làm việc rất vất vả, ban ngày thì ở ngoài đồng làm hoặc đi buôn bán tối về dệt vải, làm bún (đạo huynh Mai Tú cũng đã từng tay cầm quyển sách ngồi giữa chợ vừa học vừa bán khô cá mòi) để có tiền phụ cha hành đạo. Thấy con cái làm việc cực khổ mới có của đem về mà làm được bao nhiêu thì ông cũng công quả hoặc giúp cho người hết vợ ông bực mình cằn nhằn ông nói : “ kiếp này ăn mày kiếp sau hưởng phước “. Ông lấy tâm đức của mình ra mà độ chúng sinh. Sự nhiệt tình của ông cũng được đền đáp bằng sự kính nể và yêu thương của mọi người, do đó mà nhiều người đã nghe lời ông nhập môn hành đạo
Thực dân Pháp độc ác đi đến đâu cũng đốt nhà dân. Nhưng không hiểu vì sao khi đến nhà tín đồ Cao Đài thì chúng không đốt một nhà nào mà chỉ cắm trước nhà một con dao cho biết chúng đã đến đây (có thể chúng nghĩ dân Cao Đài không tham gia chính trị chăng?) mà khắp Bình Nam hầu như toàn là dân Cao Đài nên không nhà ai bị đốt hết. Dân làng ai nấy đều mừng rỡ vì thoát khỏi một tai họa. Mấy ngày sau ông nhận được một cơ điển có nội dung:
Diệu! Mai Diệu Thầy ban thánh đức
Trao cho người tùy sức tùy duyên
Biển mê quay trở con thuyền
Lái lèo cho vững qua miền Tây Thiên
Nhận được cơ điển ông biết ngay mình sắp phải ngồi tù nên gọi vợ con lại dặn dò và sắp xếp việc nhà để đi tù. Đúng như những gì ông tiên đoán có người đã vu cáo ông cùng các cộng sự thông đồng với thực dân Pháp lôi kéo, dụ dỗ dân làng theo Pháp (người này tên là Bổng) nên thực dân mới không đốt nhà dân của làng này. Chính quyền nghe lời ông Bổng đã bắt ông Mai Diệu cùng các cộng sự đi tù. Họ bắt rồi thả, thả rồi lại bắt như vậy ba năm tù khổ sai. Trong suốt mấy năm vào tù ra tội đó chúng hành hạ, đánh đập ông, chúng bắt ông ăn mặn ông không ăn chúng bỏ đói, bắt phải khuân vát vật nặng, nặng quá ông niệm danh hiệu Thầy sau khi niệm kỳ lạ thay ông không hề thấy nặng và ông đã vát thêm giúp cho các bạn tù. Chúng bắt ông phải đội thịt sông trên đầu máu chảy xuống đầy mặt ông… .Chúng làm nhiều điều không phải với ông như thế mà ông chẳng chút oán hờn lại còn khuyên can, giảng giải cho chúng nghe về đạo pháp, chỉ cho chúng biết cái gì nên và không nên làm, để tránh luân hồi quả báo…
Thế rồi qua cơn mưa trời lại sáng. Năm 1954, hiệp định Genèver được ký kết Quảng Nam thuộc Quốc Gia nên ông được thả tự do. Còn ông Bổng bị dân làng tố cáo tội vu khống, gián tiếp giết người vô tội (có đạo hữu không chịu nổi khổ cực của nhà tù đã chết) nên bị bắt và bị kết án tử hình nhưng được ông xin tha bổng: “Trong việc này tôi là người trực tiếp chịu đau khổ, oan ức. Nhưng oan nay được giải rồi, đau khổ thì cũng đã qua. Tôi xin tha cho chú nó, cứ để chú nó cho trời xử, Trời cao có mắt mà”. Cuối cùng tòa thả cho Bổng được tự do. Thế nhưng người tha mà trời không tha ông Bổng vừa ra khỏi cổng đã bị sét đánh chết, ba ngày sau con trai duy nhất của lão cũng bị xe đụng qua đời.
Lòng từ bi, hỷ xả cũng như sự hiểu biết của ông đã làm cho binh lính nhà tù và các bạn tù cảm phục. Và họ cùng gia đình nghe theo ông nhập môn vào đạo.
Có một câu chuyện khá thú vị là trong làng có một người tên gọi là chú út Nhọn. Chú út đến hỏi ông
Tôi định đi tập kết anh thấy có được không?
Đi thì được không chết đâu nhưng phải hai mươi mốt năm sau chú mày mới về được
Gì mà lâu vậy?
Rồi chú út Nhọn đi tập kết ra bắc (năm 1954). Đúng hai mốt năm sau (1975) đất nước hoàn toàn giải phóng chú út Nhọn mới về đoàn tụ với gia đình được. Về tới nhà chú vội tìm đến cụ Mai Diệu ( lúc này đã là giáo sư Thái Phẩm Thanh ) quỳ xuống lạy tới tấp
Tôi lạy ông thần, tôi lạy ông thần, ông giỏi quá đi, làm sao mà ông biết tôi 21 năm mới trở về nhà?
Tôi biết chứ, tôi biết 21 năm sau thì đất nước mới hòa bình. Nhưng thiên cơ bất khả lộ, tôi không thể nói rõ cho chú được.
Từ đó chú út Nhọn siêng năng sinh hoạt đạo hẳng ra và tu rất khá
“Đời người mấy cuộc tang thương
Bệnh, già, sống, thác bốn đường tân tao”
Năm 1988, cụ phối sư bệnh nặng các con của ông đã hết lòng tìm phương cứu chữa nhưng không được đành cầu “bách tế tiên phương” ông xin được sống thêm ba năm nữa
Lần đầu Ngài cho xương heo hầm với đậu đen. Ông không chịu “Thầy thử lòng Mai Diệu chăng? Mai Diệu thà chết chứ không phá giới”
Lần sau Ngài cho tro giữa lòng bếp và gừng giã nhuyển hòa với nước uống, cùng với lời nhắn:
Phẩm cao nhất ít người làm được
Thầy thương ban linh dược trường sanh
Uống vào mọi bệnh đều lành
(Còn một câu nữa Hạnh quên mất rồi)
Cụ phối sư đã uống bài thuốc đó và đã khỏi bệnh. Sống gần đủ ba năm biết mình sắp chết, ông gọi con cháu lại căn dặn phải lo đám tang cho ông thật chu đáo nhất là không để nhân sinh đến viếng ông đói được, phải lo cơm nước đầy đủ, và ông bắt phải mua sẵn đầy đủ thực phẩm cần thiết để nấu ăn: gạo, rau củ quả, dầu , gia vị… tấc cả xếp sẵn vào kho. Đến khi hấp hối ông còn hỏi: Tỉnh đạo còn bao nhiêu dầu có đủ dùng không?.
Và rồi ông đã qua đời, về với Thầy vào ngày mồng 5 tháng 4 năm đại đạo 66 (đúng ba năm sau khi cầu bách tế tiên phương, không sai một ngày).
Đám tang ông rất lớn. Đại diện nhà nước, chính quyền địa phương, đại diện các tôn giáo bạn cùng hơn ba ngàn nhân sinh từ khắp mọi miền đất nước đã về viếng đám ông. Người đưa đám đông nghẹt đường kéo dài hàng cây số.
Sau khi mất vong linh ông được phong làm Phước Đức Chơn Tiên về đàn cơ tại Bến Tre, ông khuyên con cháu tu hành. Vâng lời cha dạy đạo huynh Mai Tú (con trai thứ của ông) đã từ giã nghiệp buôn bán, xuất thân hành đạo và hiện tại đang chủ quản cơ quan phước thiện của hội thánh với chức danh là giáo sư Thái Tú Thanh.
Sống ở thế gian độ được nhân sinh vào đạo tu hành. Thác về với Thầy lại độ được cháu con tu hành đắc đạo. Cố phối sư Thái Phẩm Thanh xứng đáng là một trong những bậc tiền bối về hướng đạo của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài.
Mai Hạnh
Cố phối sư Thái Phẩm Thanh tên thật là Mai Diệu quê ở Bình Nam, Thăng Bình, Quảng Nam. Thưở sinh thời ông luôn nghĩ nếu không làm quan, thì cũng đi tu để giúp đời. Song nếu làm quan thì cũng chẳng giúp được nhiều vì vậy ông quyết tâm xuất thân hành đạo.
Nhà ông có một dãy bàn ghế để tiếp tăng đãi chúng (chiêu hàn đãi sĩ ),ông rất thương người, thường xuyên giúp đỡ người khác từ lời ăn tiếng nói cho đến điều kiện vật chất. Ông đang bưng chén cơm ăn mà thấy hoặc biết người nào đó đang đói ông sẽ nói dối rằng no quá ăn không nổi nữa và sai con đem cơm đến cho người đó ăn. Các con ông làm việc rất vất vả, ban ngày thì ở ngoài đồng làm hoặc đi buôn bán tối về dệt vải, làm bún (đạo huynh Mai Tú cũng đã từng tay cầm quyển sách ngồi giữa chợ vừa học vừa bán khô cá mòi) để có tiền phụ cha hành đạo. Thấy con cái làm việc cực khổ mới có của đem về mà làm được bao nhiêu thì ông cũng công quả hoặc giúp cho người hết vợ ông bực mình cằn nhằn ông nói : “ kiếp này ăn mày kiếp sau hưởng phước “. Ông lấy tâm đức của mình ra mà độ chúng sinh. Sự nhiệt tình của ông cũng được đền đáp bằng sự kính nể và yêu thương của mọi người, do đó mà nhiều người đã nghe lời ông nhập môn hành đạo
Thực dân Pháp độc ác đi đến đâu cũng đốt nhà dân. Nhưng không hiểu vì sao khi đến nhà tín đồ Cao Đài thì chúng không đốt một nhà nào mà chỉ cắm trước nhà một con dao cho biết chúng đã đến đây (có thể chúng nghĩ dân Cao Đài không tham gia chính trị chăng?) mà khắp Bình Nam hầu như toàn là dân Cao Đài nên không nhà ai bị đốt hết. Dân làng ai nấy đều mừng rỡ vì thoát khỏi một tai họa. Mấy ngày sau ông nhận được một cơ điển có nội dung:
Diệu! Mai Diệu Thầy ban thánh đức
Trao cho người tùy sức tùy duyên
Biển mê quay trở con thuyền
Lái lèo cho vững qua miền Tây Thiên
Nhận được cơ điển ông biết ngay mình sắp phải ngồi tù nên gọi vợ con lại dặn dò và sắp xếp việc nhà để đi tù. Đúng như những gì ông tiên đoán có người đã vu cáo ông cùng các cộng sự thông đồng với thực dân Pháp lôi kéo, dụ dỗ dân làng theo Pháp (người này tên là Bổng) nên thực dân mới không đốt nhà dân của làng này. Chính quyền nghe lời ông Bổng đã bắt ông Mai Diệu cùng các cộng sự đi tù. Họ bắt rồi thả, thả rồi lại bắt như vậy ba năm tù khổ sai. Trong suốt mấy năm vào tù ra tội đó chúng hành hạ, đánh đập ông, chúng bắt ông ăn mặn ông không ăn chúng bỏ đói, bắt phải khuân vát vật nặng, nặng quá ông niệm danh hiệu Thầy sau khi niệm kỳ lạ thay ông không hề thấy nặng và ông đã vát thêm giúp cho các bạn tù. Chúng bắt ông phải đội thịt sông trên đầu máu chảy xuống đầy mặt ông… .Chúng làm nhiều điều không phải với ông như thế mà ông chẳng chút oán hờn lại còn khuyên can, giảng giải cho chúng nghe về đạo pháp, chỉ cho chúng biết cái gì nên và không nên làm, để tránh luân hồi quả báo…
Thế rồi qua cơn mưa trời lại sáng. Năm 1954, hiệp định Genèver được ký kết Quảng Nam thuộc Quốc Gia nên ông được thả tự do. Còn ông Bổng bị dân làng tố cáo tội vu khống, gián tiếp giết người vô tội (có đạo hữu không chịu nổi khổ cực của nhà tù đã chết) nên bị bắt và bị kết án tử hình nhưng được ông xin tha bổng: “Trong việc này tôi là người trực tiếp chịu đau khổ, oan ức. Nhưng oan nay được giải rồi, đau khổ thì cũng đã qua. Tôi xin tha cho chú nó, cứ để chú nó cho trời xử, Trời cao có mắt mà”. Cuối cùng tòa thả cho Bổng được tự do. Thế nhưng người tha mà trời không tha ông Bổng vừa ra khỏi cổng đã bị sét đánh chết, ba ngày sau con trai duy nhất của lão cũng bị xe đụng qua đời.
Lòng từ bi, hỷ xả cũng như sự hiểu biết của ông đã làm cho binh lính nhà tù và các bạn tù cảm phục. Và họ cùng gia đình nghe theo ông nhập môn vào đạo.
Có một câu chuyện khá thú vị là trong làng có một người tên gọi là chú út Nhọn. Chú út đến hỏi ông
Tôi định đi tập kết anh thấy có được không?
Đi thì được không chết đâu nhưng phải hai mươi mốt năm sau chú mày mới về được
Gì mà lâu vậy?
Rồi chú út Nhọn đi tập kết ra bắc (năm 1954). Đúng hai mốt năm sau (1975) đất nước hoàn toàn giải phóng chú út Nhọn mới về đoàn tụ với gia đình được. Về tới nhà chú vội tìm đến cụ Mai Diệu ( lúc này đã là giáo sư Thái Phẩm Thanh ) quỳ xuống lạy tới tấp
Tôi lạy ông thần, tôi lạy ông thần, ông giỏi quá đi, làm sao mà ông biết tôi 21 năm mới trở về nhà?
Tôi biết chứ, tôi biết 21 năm sau thì đất nước mới hòa bình. Nhưng thiên cơ bất khả lộ, tôi không thể nói rõ cho chú được.
Từ đó chú út Nhọn siêng năng sinh hoạt đạo hẳng ra và tu rất khá
“Đời người mấy cuộc tang thương
Bệnh, già, sống, thác bốn đường tân tao”
Năm 1988, cụ phối sư bệnh nặng các con của ông đã hết lòng tìm phương cứu chữa nhưng không được đành cầu “bách tế tiên phương” ông xin được sống thêm ba năm nữa
Lần đầu Ngài cho xương heo hầm với đậu đen. Ông không chịu “Thầy thử lòng Mai Diệu chăng? Mai Diệu thà chết chứ không phá giới”
Lần sau Ngài cho tro giữa lòng bếp và gừng giã nhuyển hòa với nước uống, cùng với lời nhắn:
Phẩm cao nhất ít người làm được
Thầy thương ban linh dược trường sanh
Uống vào mọi bệnh đều lành
(Còn một câu nữa Hạnh quên mất rồi)
Cụ phối sư đã uống bài thuốc đó và đã khỏi bệnh. Sống gần đủ ba năm biết mình sắp chết, ông gọi con cháu lại căn dặn phải lo đám tang cho ông thật chu đáo nhất là không để nhân sinh đến viếng ông đói được, phải lo cơm nước đầy đủ, và ông bắt phải mua sẵn đầy đủ thực phẩm cần thiết để nấu ăn: gạo, rau củ quả, dầu , gia vị… tấc cả xếp sẵn vào kho. Đến khi hấp hối ông còn hỏi: Tỉnh đạo còn bao nhiêu dầu có đủ dùng không?.
Và rồi ông đã qua đời, về với Thầy vào ngày mồng 5 tháng 4 năm đại đạo 66 (đúng ba năm sau khi cầu bách tế tiên phương, không sai một ngày).
Đám tang ông rất lớn. Đại diện nhà nước, chính quyền địa phương, đại diện các tôn giáo bạn cùng hơn ba ngàn nhân sinh từ khắp mọi miền đất nước đã về viếng đám ông. Người đưa đám đông nghẹt đường kéo dài hàng cây số.
Sau khi mất vong linh ông được phong làm Phước Đức Chơn Tiên về đàn cơ tại Bến Tre, ông khuyên con cháu tu hành. Vâng lời cha dạy đạo huynh Mai Tú (con trai thứ của ông) đã từ giã nghiệp buôn bán, xuất thân hành đạo và hiện tại đang chủ quản cơ quan phước thiện của hội thánh với chức danh là giáo sư Thái Tú Thanh.
Sống ở thế gian độ được nhân sinh vào đạo tu hành. Thác về với Thầy lại độ được cháu con tu hành đắc đạo. Cố phối sư Thái Phẩm Thanh xứng đáng là một trong những bậc tiền bối về hướng đạo của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài.
Mai Hạnh
Sửa lần cuối: