<P align=center><FONT color=#ff0000 size=5><strong>ĐẠO HIẾU </strong></FONT></P>
<P align=center><strong><FONT color=#ff0000 size=4>TRONG CAO ĐÀI GIÁO</FONT></strong></P>
<P><strong><FONT face="Times New Roman, Times, serif"><FONT size=4> <U>ĐẠO HIẾU</U> <FONT face="Times New Roman, Times, serif">:</FONT></FONT></FONT></strong></P>
<P><FONT face="Times New Roman, Times, serif" size=4> <strong>Khái niệm</strong> : Đạo Hiếu là Đạo Đức của con cháu trong quan hệ với Cha mẹ ông bà. Nó là tình cảm, bổn phận xuất phát trong tư tưởng, suy nghĩ, biểu hiện qua hành động đối với Ông Ba Cha Mẹ kể cả khi quý vị qua đời ... Hiếu là một đức tính của con người, ta thường gọi đức Hiếu, thế nhưng vấn đề đã được nâng cao lên tầm vóc có ính phổ quát, như là Chân lý , là lẽ phải đương nhiên ở đời nên mặc nhiên gọi là <strong>Đạo Hiếu</strong> .</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> <strong>Hiếu là đức tính đặc trưng Đông phương</strong> : Người Đông phương nhất là những nước chịu ảnh hưỡng của Nho giáo và Phật giáo.. đạo Hiếu là nền tảng căn bản cho đạo lý làm người. Người xưa có nói : " Bách hạnh dĩ Hiếu vi tiên " ( trăm cái nết lấy Hiếu làm đầu ).</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Lấy chuyện vua Nghiêu truyền hiền ngôi cho vua Thuấn , cũng rõ Đông phương từ xa xưa xem trọng chữ Hiếu là dường nào ! " Ông Thuấn có cha là Cổ Tẩu, mẹ là Ốc Đăng, người bộ lạc Ngu. Mẹ chết, cha lấy vợ kế. Cha nghe lời vợ kế nhiều lần muốn giết Thuấn. Thuấn hết sức giữ Đạo Hiếu, càng trọn niềm cung kính, chỉ biết than khóc với Trời, không tõ chút gì oán hận, xa gần đồn đải tiếng tăm là người con có Hiếu. Khi cày ruộng ở Lịch Sơn, người ta đều nhường bờ; đánh cá ở đầm Lôi người ta nhường chỗ ở. Làm đồ gốm ở Hà Tân, buôn bán nơi Thọ Khâu, Phụ Hạ, một năm sau những nơi xây thành, hai năm thành thị trấn, ba năm thành đô thị lớn. Khi cày ruộng ở Lịch Sơn: Trời thương có đức Hiếu sai voi đến cày giúp, chim đến làm cỏ giùm Cha và dì ghẻ ngày càng cảm động chuyển sang yêu thương . Vua Nghiêu nghe tiếng người Hiền, gả hai con gái cho làm vợ, truyền ngôi Đế cho. Mạnh Tử đã nói : " Thuấn là người đại hiếu suốt đời yêu mến cha mẹ. " Thời trị vì Nghiêu Thuấn thật sự thái bình để được ca ngợi muôn đời, phải chăng chính vì những con người chí hiếu ấy? "</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> <strong>So sánh với các quan niệm của Tây phương</strong> : Không chỉ có Đông phương, từ xa xưa các dân tộc Tây phương, như trong luật La Mã cổ ( vào thế kỷ VI trước công nguyên ) cũng đã quy định những mối quan hệ trong luật ấy, vai trò người cha quá lớn đến mức có quyền bán con làm nô lệ. Cho đến thế kỷ 19 ( 1804), bộ luật dân sự Pháp ( Napoleon ) vẫn còn những quy định khẳng định quyền lực của người cha, người chồng. Trong khi đó hơn năm trăm năm trước Tây lịch, Khổng Tử đã xây dựng lý thuyết Tam cang, trong đó Phụ tử cang quy định quan hệ cha mẹ con cái rất đầy đủ cả hai chiều: Cha mẹ xứng bậc cha mẹ , con cái đáng phận làm con. Nếu các bậc cha mẹ sai lầm, con cái có bổn phận khuyên can trong sự tôn kính.</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Đến khi Tây phương tư bản hóa , khi cách mạng công nghiệp đưa nền văn minh Tây phương tiến bộ vượt bực cho đến ngày nay thì mối quan hệ gia đình đã đánh mất nhiều giá trị thiêng liêng. Con người trở nên ích kỷ, cha mẹ không muốn chăm sóc con cái, phó mặc cho nhà trường, cách ly chúng từ rất sớm. Cha mẹ về già thì con cái lại bỏ mặc trong các nhà dưỡng lão đường, hoặc những nơi riêng biệt. Cha mẹ và con cái đôi khi chỉ còn là quan hệ sở hữu về tài sản....Một gia đình hai thế hệ đã là hiếm trong xã hội Tây phương thời nay nói gì tới " tam, tứ đại đồng đường ". </FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Trong hiện trạng ấy, gần đây một số thức giả Tây phương đã muốn có một chuyển biến trong xã hội theo chiều hướng quay trở lại truyền thống gia đình như Đông phương một cách mạnh mẽ, phá vỡ nề nếp đạo đức gia đình.</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> <strong>Đạo Hiếu trong Nho giáo</strong> :</FONT> <FONT face="Times New Roman, Times, serif" size=4>Đức Khổng Tử xây dựng mẫu người quân tử lấy hai chữ Ttrung Hiếu làm đầu. Ta có thể bắt gặp tư tưỡng này trong khắp văn thơ của các nhà Nho ngày trước:</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman, Times, serif" size=4> " Trai thời Trung Hiếu làm đầu ,</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman, Times, serif" size=4> Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình." </FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman, Times, serif" size=4> Lục Vân Tiên - Nguyễn đình Chiểu</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman, Times, serif" size=4> Đức Khổng Tử dạy: Quân tử vụ bản, bản lập nhi đạo sinh, Hiếu để giả dả, kỳ vĩ nhân chi bản dư " ( Người Quân tử làm một việc gì, tất trước phải lo vun bồi cội gốc của việc ấy, gốc có vững thì đạo mới sanh sôi, Hiếu để chính lại gốc của việc làm nhân đó ). Bỡi vì, trước khi yêu người phải yêu cha mẹ anh em mình trước đã !</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Như đã nói trong phụ tử cang, Đức Khổng Tử dạy : " Vi nhơn phụ tự chỉ ư từ, vi nhơn tử chỉ ư hiếu " ( Làm cha mẹ phải lành, làm con phải hiếu). Cha mẹ phải có trách nhiệm dạy dỗ, nuôi nấng con cái, có quyền nhờ con lúc tuổi già.</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Với Đức Khổng, Hiếu phải có lòng thành kính, không phải là bổn phận mang tính gượng ép. Một hôm Thầy Tử Du hỏi Đức Khổng về chữ Hiếu, Ngài đáp: " Ngày nay người ta cho chữ hiếu là biết nuôi cha mẹ, nhưng xét kỷ lại giống chó ngựa kia cũng có người nuôi. Nếu nuôi cha mẹ mà không kính thì lấy gì phân biệt sự nuôi cầm thú ". </FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Từ rất sớm, Ðức Khổng Tử khuyên bổn phận con cái phải biết khuyên can cha mẹ nếu có sự sai lạc với tất cả lòng tôn kính. " Sự phụ mẫu cơ gián, kiến chi bất tùng, hựu kỉnh bất di, lao nhi bất oán." nghĩa là can gián cha mẹ khi lỗi lầm với lời lẽ ôn nhu lễ phép. Nếu cha mẹ không nghe theo thì vẫn giữ lòng <FONT face="Times New Roman, Times, serif">kính mến. Cha mẹ sai làm việc khó nhọc chẳng khá phiền hà...</FONT></FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Thầy Mẩn Tử Khiên được tặng cho một chữ Hiếu chính vì đức chịu đựng chấp nhận cái khổ cho riêng mình để không bất kính với mẹ kế, rồi cảm hóa được mẹ kế trở thành một từ mẫu, một chuyện ít có trong đời thường. </FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Đức Khổng còn dạy : " Phụ mẫu tại, bất viễn du. Du, tất hữu phương." ( Cha mẹ còn sống , thì con cái không nên đi xa , nếu có đi phải cho biết chỗ ). Nói như thế không có nghĩa là hiểu theo cực đoan, hạn hẹp. Chính Đức Khổng là người xa mẹ đi khắp nơi để truyền bá đạo lý, Thầy Mạnh Tử cũng đi cho đến mẹ mất mới trở về. Rõ ràng là ra đi vì nghĩa lớn phải hy sinh tình cảm cá nhân, khi cần thiết phải làm. Ra đi mà sắp xếp được yên ổn tại nhà là tốt đẹp, không phải lo âu nhiều về chữ Hiếu.</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4>( còn tiếp )</FONT> </P>
<P align=center><strong><FONT color=#ff0000 size=4>TRONG CAO ĐÀI GIÁO</FONT></strong></P>
<P><strong><FONT face="Times New Roman, Times, serif"><FONT size=4> <U>ĐẠO HIẾU</U> <FONT face="Times New Roman, Times, serif">:</FONT></FONT></FONT></strong></P>
<P><FONT face="Times New Roman, Times, serif" size=4> <strong>Khái niệm</strong> : Đạo Hiếu là Đạo Đức của con cháu trong quan hệ với Cha mẹ ông bà. Nó là tình cảm, bổn phận xuất phát trong tư tưởng, suy nghĩ, biểu hiện qua hành động đối với Ông Ba Cha Mẹ kể cả khi quý vị qua đời ... Hiếu là một đức tính của con người, ta thường gọi đức Hiếu, thế nhưng vấn đề đã được nâng cao lên tầm vóc có ính phổ quát, như là Chân lý , là lẽ phải đương nhiên ở đời nên mặc nhiên gọi là <strong>Đạo Hiếu</strong> .</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> <strong>Hiếu là đức tính đặc trưng Đông phương</strong> : Người Đông phương nhất là những nước chịu ảnh hưỡng của Nho giáo và Phật giáo.. đạo Hiếu là nền tảng căn bản cho đạo lý làm người. Người xưa có nói : " Bách hạnh dĩ Hiếu vi tiên " ( trăm cái nết lấy Hiếu làm đầu ).</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Lấy chuyện vua Nghiêu truyền hiền ngôi cho vua Thuấn , cũng rõ Đông phương từ xa xưa xem trọng chữ Hiếu là dường nào ! " Ông Thuấn có cha là Cổ Tẩu, mẹ là Ốc Đăng, người bộ lạc Ngu. Mẹ chết, cha lấy vợ kế. Cha nghe lời vợ kế nhiều lần muốn giết Thuấn. Thuấn hết sức giữ Đạo Hiếu, càng trọn niềm cung kính, chỉ biết than khóc với Trời, không tõ chút gì oán hận, xa gần đồn đải tiếng tăm là người con có Hiếu. Khi cày ruộng ở Lịch Sơn, người ta đều nhường bờ; đánh cá ở đầm Lôi người ta nhường chỗ ở. Làm đồ gốm ở Hà Tân, buôn bán nơi Thọ Khâu, Phụ Hạ, một năm sau những nơi xây thành, hai năm thành thị trấn, ba năm thành đô thị lớn. Khi cày ruộng ở Lịch Sơn: Trời thương có đức Hiếu sai voi đến cày giúp, chim đến làm cỏ giùm Cha và dì ghẻ ngày càng cảm động chuyển sang yêu thương . Vua Nghiêu nghe tiếng người Hiền, gả hai con gái cho làm vợ, truyền ngôi Đế cho. Mạnh Tử đã nói : " Thuấn là người đại hiếu suốt đời yêu mến cha mẹ. " Thời trị vì Nghiêu Thuấn thật sự thái bình để được ca ngợi muôn đời, phải chăng chính vì những con người chí hiếu ấy? "</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> <strong>So sánh với các quan niệm của Tây phương</strong> : Không chỉ có Đông phương, từ xa xưa các dân tộc Tây phương, như trong luật La Mã cổ ( vào thế kỷ VI trước công nguyên ) cũng đã quy định những mối quan hệ trong luật ấy, vai trò người cha quá lớn đến mức có quyền bán con làm nô lệ. Cho đến thế kỷ 19 ( 1804), bộ luật dân sự Pháp ( Napoleon ) vẫn còn những quy định khẳng định quyền lực của người cha, người chồng. Trong khi đó hơn năm trăm năm trước Tây lịch, Khổng Tử đã xây dựng lý thuyết Tam cang, trong đó Phụ tử cang quy định quan hệ cha mẹ con cái rất đầy đủ cả hai chiều: Cha mẹ xứng bậc cha mẹ , con cái đáng phận làm con. Nếu các bậc cha mẹ sai lầm, con cái có bổn phận khuyên can trong sự tôn kính.</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Đến khi Tây phương tư bản hóa , khi cách mạng công nghiệp đưa nền văn minh Tây phương tiến bộ vượt bực cho đến ngày nay thì mối quan hệ gia đình đã đánh mất nhiều giá trị thiêng liêng. Con người trở nên ích kỷ, cha mẹ không muốn chăm sóc con cái, phó mặc cho nhà trường, cách ly chúng từ rất sớm. Cha mẹ về già thì con cái lại bỏ mặc trong các nhà dưỡng lão đường, hoặc những nơi riêng biệt. Cha mẹ và con cái đôi khi chỉ còn là quan hệ sở hữu về tài sản....Một gia đình hai thế hệ đã là hiếm trong xã hội Tây phương thời nay nói gì tới " tam, tứ đại đồng đường ". </FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Trong hiện trạng ấy, gần đây một số thức giả Tây phương đã muốn có một chuyển biến trong xã hội theo chiều hướng quay trở lại truyền thống gia đình như Đông phương một cách mạnh mẽ, phá vỡ nề nếp đạo đức gia đình.</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> <strong>Đạo Hiếu trong Nho giáo</strong> :</FONT> <FONT face="Times New Roman, Times, serif" size=4>Đức Khổng Tử xây dựng mẫu người quân tử lấy hai chữ Ttrung Hiếu làm đầu. Ta có thể bắt gặp tư tưỡng này trong khắp văn thơ của các nhà Nho ngày trước:</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman, Times, serif" size=4> " Trai thời Trung Hiếu làm đầu ,</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman, Times, serif" size=4> Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình." </FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman, Times, serif" size=4> Lục Vân Tiên - Nguyễn đình Chiểu</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman, Times, serif" size=4> Đức Khổng Tử dạy: Quân tử vụ bản, bản lập nhi đạo sinh, Hiếu để giả dả, kỳ vĩ nhân chi bản dư " ( Người Quân tử làm một việc gì, tất trước phải lo vun bồi cội gốc của việc ấy, gốc có vững thì đạo mới sanh sôi, Hiếu để chính lại gốc của việc làm nhân đó ). Bỡi vì, trước khi yêu người phải yêu cha mẹ anh em mình trước đã !</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Như đã nói trong phụ tử cang, Đức Khổng Tử dạy : " Vi nhơn phụ tự chỉ ư từ, vi nhơn tử chỉ ư hiếu " ( Làm cha mẹ phải lành, làm con phải hiếu). Cha mẹ phải có trách nhiệm dạy dỗ, nuôi nấng con cái, có quyền nhờ con lúc tuổi già.</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Với Đức Khổng, Hiếu phải có lòng thành kính, không phải là bổn phận mang tính gượng ép. Một hôm Thầy Tử Du hỏi Đức Khổng về chữ Hiếu, Ngài đáp: " Ngày nay người ta cho chữ hiếu là biết nuôi cha mẹ, nhưng xét kỷ lại giống chó ngựa kia cũng có người nuôi. Nếu nuôi cha mẹ mà không kính thì lấy gì phân biệt sự nuôi cầm thú ". </FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Từ rất sớm, Ðức Khổng Tử khuyên bổn phận con cái phải biết khuyên can cha mẹ nếu có sự sai lạc với tất cả lòng tôn kính. " Sự phụ mẫu cơ gián, kiến chi bất tùng, hựu kỉnh bất di, lao nhi bất oán." nghĩa là can gián cha mẹ khi lỗi lầm với lời lẽ ôn nhu lễ phép. Nếu cha mẹ không nghe theo thì vẫn giữ lòng <FONT face="Times New Roman, Times, serif">kính mến. Cha mẹ sai làm việc khó nhọc chẳng khá phiền hà...</FONT></FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Thầy Mẩn Tử Khiên được tặng cho một chữ Hiếu chính vì đức chịu đựng chấp nhận cái khổ cho riêng mình để không bất kính với mẹ kế, rồi cảm hóa được mẹ kế trở thành một từ mẫu, một chuyện ít có trong đời thường. </FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Đức Khổng còn dạy : " Phụ mẫu tại, bất viễn du. Du, tất hữu phương." ( Cha mẹ còn sống , thì con cái không nên đi xa , nếu có đi phải cho biết chỗ ). Nói như thế không có nghĩa là hiểu theo cực đoan, hạn hẹp. Chính Đức Khổng là người xa mẹ đi khắp nơi để truyền bá đạo lý, Thầy Mạnh Tử cũng đi cho đến mẹ mất mới trở về. Rõ ràng là ra đi vì nghĩa lớn phải hy sinh tình cảm cá nhân, khi cần thiết phải làm. Ra đi mà sắp xếp được yên ổn tại nhà là tốt đẹp, không phải lo âu nhiều về chữ Hiếu.</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4>( còn tiếp )</FONT> </P>