Thanh Hoang
New member
Nhắc đến Thể Liên Tiên Nữ - Thế danh Võ Thị Chỉnh có lẽ còn xa lạ đối với người tín đồ Đạo Cao Đài nói chung. Tuy nhiên, đối với tín đồ đang tu học tại Hội Thánh Cao Đài Chơn Lý mà đặc biệt là nữ phái thì lại rất gần gũi và quen thuộc. Vậy có phải Thể Liên Tiên Nữ chỉ có tầm ảnh hưởng đối với Cao Đài Chơn Lý hay không, hay Tiên Nữ còn có tầm ảnh hưởng đến các Hội Thánh hay Tổ Chức Cao Đài nào khác? Và ảnh hưởng đến chừng mực nào? Công lao của chị đối với Đại Đạo ra sao?
I. Vài nét về thân thế và sự nghiệp hành đạo của Thể Liên Tiên Nữ - Võ Thị Chỉnh.
“Ngôi Chị Thể Liên[1] thế danh là Võ Thị Chỉnh, sinh năm 1892, tại Xã An Hoà, Thành Phố Long Xuyên (Tỉnh An-Giang). Ngôi Chị là con trong một gia đình lao động nghèo( …). Do hoàn cảnh sống khó khăn, gia đình chuyển về Rạch Giá (Kiên Giang) định cư và sinh kế tại đây” [2]
Sau đó, Chị Võ Thị Chỉnh thành thân cùng ông Nguyễn Hữu Niệm và trở thành cháu dâu của ông Nguyễn Hữu Phùng – Tiền Bối Thiên Sư, Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài Hội Thánh Trung Ương (Minh Chơn Lý) và hạ sinh được 6 người con, trong đó có 2 con trai là Nguyễn Hữu Kiển (Đồng tử Chơn Tâm) và Nguyển Hữu Thận (Đồng tử Tường Khánh) là hai đồng tử đặc biệt quan trọng đối với cơ bút của Minh Chơn Lý lúc bấy giờ.
Sau khi nhập môn vào Đạo Cao Đài, vì siêng năng tu học, Ngôi Chị Võ Thị Chỉnh được thăng thưởng 2 năm tuổi thọ, nếu không Chị đã phải liễu đạo ở tuổi 36, nhưng nhờ thăng thọ để làm tròn phận sự, Chị liễu đạo năm 38 tuổi:
“Võ Nhi vốn thiệt Thể Liên Tiên
Cho xuống Phàm gian lục lục niên
Vì thấy thành tâm cầu mộ Đạo
Thưởng thêm hai tuổi triệu hồi Thiên.”[3]
Như vậy, quá trình tu học của Ngôi Chị đã được ấn chứng ngay từ khi Chị còn chưa liễu đạo. Ngày ấy, chị đã trở thành tấm gương sáng đối với nhiều tín đồ tại họ đạo lúc bấy giờ về sự quá trình tu học, tự giác - giá tha, tự độ - độ tha.
Ba mươi tám năm sống tại trần gian, ngày chị thoát xác triều Thiên, chính là ngày Đức Lý Đại Tiên Trưởng Kiêm Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thừa lịnh Ngọc Hư Cung tuyên đọc thánh chiếu, sắc phong tiên vị cho Chị (ngày 8 tháng 2 năm Canh Ngọ ):
“Phụng Ngọc Hư Cung.
NGỌC LỊNH
Hứa gởi cho chức sắc Thiên phong:
Nay mừng thấy Thể Liên Tiên Nữ
Được gia phong đến bực Phước Thần
Cũng vì chưng một dạ ân cần
Lo dạy đạo Nữ, Nam lưỡng phái…”[4]
Như vậy, cuộc đời của Ngôi Chị Thể Liên có một số điểm khá đặt biệt như sau: Sinh ra trong một gia đình bần hàn, có tâm học đạo và cầu đạo, được hòa nhập vào môi trường mới với tầng lớp lãnh đạo tôn giáo, có con là đồng tử quan trọng, được ấn chứng ngay khi còn sống và khi quy hồi Bạch Ngọc có thánh chiếu của Lý Đại Tiên.
II. Ngôi Chị Thể Liên Tiên Nữ - Tiền bối của Đại Đạo
Sau khi liễu đạo, Ngôi Chị đã ra sức giáng cơ cho kinh điển rất nhiều, công đầu của Ngôi Chị cần phải nhắc đầu tiên là chuyển đổi kinh nhựt tụng bằng chữ Hán sang dùng kinh nhựt tụng bằng chữ Quốc Ngữ.
Hội Thánh Cao Đài Chơn Lý là một trong số ít những Hội Thánh dùng kinh nhựt tụng hoàn toàn bằng chữ Quốc Ngữ và đa phần đều là kinh do Ngôi Chị giáng cơ, duy nhất bài xưng tụng Đức Khổng Thánh Tiên Sư Chí Thánh Văn Tuyên là dùng chữ Hán Việt, còn lại các bài kinh mà Ngôi Chị cho đều bằng chữ quốc ngữ.
Trong số những bài kinh nhựt tụng đó, cần lưu ý bài Lạy Mẹ Đại Từ Đại Bi hiện đang được dùng rộng rãi ngoài Cao Đài Chơn Lý như Hội Thánh Cao Đài Bạch Y Liên Đoàn Chơn Lý, Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên, các thánh sở Cao Đài độc lập như Thánh Thất Bàu Sen, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý[5]… Ngoài ra còn có các bài xưng tụng Tứ Đại Thánh Nhơn cũng được dùng khá rộng, và các bài này cũng do Ngôi Chị giáng cơ.
Cho nên, việc chuyển đổi kinh nhựt tụng bằng chữ Hán sang dùng kinh chữ quốc ngữ là một bước đột phá của Hội Thánh Cao Đài Chơn Lý thể hiện tinh thần dân tộc cao độ, và thể hiện nét đặc trưng so với các Hội Thánh Cao Đài anh em. Mà công đầu thuộc về Ngôi Chị Thể Liên, và những bài kinh đó đã vượt qua khỏi khuôn khổ một Hội Thánh để đến với nhiều đồng đạo, đến với các Thánh sở ngoài Hội Thánh, đến với các Hội Thánh Cao Đài anh em… đã thể hiện sự thành công của chính Ngôi Chị Võ Thị Chỉnh trong việc hành văn truyền cảm, lời thơ da diết và cả trong quá trình truyền bá, cũng thể hiện sự “chính danh” của một bậc Tiên Nữ không dừng lại trong Minh Chơn Lý hay Chơn Lý mà ra đến toàn Đại Đạo.
Sẽ là một thiếu sót to lớn khi không nhắc đến công lao của Ngôi Chị trong việc truyền cho các bài Thánh Giáo khác như Bách Linh Cơ Sám, Sám Hối (Mây giăng khuất khiến trăng mờ tỏ), các bài xưng tụng Ngũ Chi Đại Đạo, và các bài Thánh Giáo dạy Đạo khác…cũng đã được nhiều nơi sử dụng. Ngoài ra, Ngôi Chị còn giáng cơ ở nhiều nơi không thuộc hệ thống Cao Đài Chơn Lý:
Điển hình như: Tại Thánh thất Tân Định tại Thành phố Hồ Chí Minh (thuộc Hội Thánh Cao Đài Cầu Kho – Tam Quan), đàn cơ dậu thời, rằm tháng 8 năm Canh Tuất (15 - 09-1970), Ngôi Chị đã giáng cho bài “Tu thân lập đức” gồm cả văn xuôi và văn vần. Trong đó cách Chị xưng hô vẫn gần gũi và đúng tính “truyền thống” như 30 năm trước đó: “Vâng lịnh Ðức Từ-Tôn Kim-Mẫu, Chị đến trước với các em trong đôi khắc để cùng các em có đôi dòng đạo lý để gợi rằng nhắc nhở các em nhớ kiếp của mình hầu bừng sáng tâm linh để được trọn vẹn niềm tin tu thân hành Ðạo lập công bồi đức, sớm đoạn nghiệp tiền khiên hầu sớm trở về đoàn viên nơi cảnh cũ. Các em đồng an tọa để nghe lời Chị phân giải” (…).
Thể Liên Tiên Nữ vẫn xưng là “chị”, gọi các bậc tiền bối trong đàn cơ ngày hôm đó là các “em”, 30 năm trước đó, dù ở tận miền Rạch Giá xa xôi, trong các đàn cơ khác nhau, người hầu đàn cũng khác nhưng Thể Liên Tiên Nữ vẫn giữ bực xưng danh gần gũi như thế, vẫn là “chị - em” để nhìn nhận nhau là con một Cha Trời Thượng Đế.
Và ở các thánh sở Cao Đài độc lập khác, Ngôi Chị vẫn thường giáng cơ để dạy đạo, đặc biệt là đối với nữ phái, cho nên, nếu phân chia những địa điểm mà ngôi chị giáng cơ theo giai đoạn lịch sử thì:
Từ năm 1930 – 1937: Ngôi Chị thường giáng cơ tại đàn cơ Cao Thiên Đàn – Rạch Giá, Kiên Giang gắn liền với thời kỳ Minh Chơn Lý thông qua nhị vị đồng tử Chơn Tâm và Tường Khánh, tức Đệ nhị tiểu thời theo quan niệm của Cao Đài Chơn Lý
Từ năm 1937 – 1948: Ngôi Chị thường giáng cơ tại Vô Vi Hiệp Thiên Đài thông qua Tiền Bối Ngọc Chơn Long – Chưỡng Quản Hiệp Thiên Đài Cao Đài Chơn Lý, tức Đệ tam tiểu thời.
Tứ năm 1948 trở về sau, khi phận sự dạy đạo cho trường Chơn Lý đã xong, Tiền Bối Ngọc Chơn Long Lê Văn Được triều Thiên, Cao Đài Chơn Lý bế bút, thì Ngôi Chị bắt đầu giáng cơ ở nhiều nơi khác nhau.
Từ việc Ngôi Chị giáng cơ dạy đạo theo các phân kỳ lịch sử, từ việc Ngôi Chị cho kinh nhựt tụng đang được nhiều Hội Thánh Cao Đài và thánh sở độc lập sử dụng rộng rãi, phải công nhận những công lao to lớn của Ngôi Chị Thể Liên không dừng lại ở vị trí tiền bối của một Hội Thánh, Tiền bối của Minh Chơn Lý, Tiền bối của Cao Đài Chơn Lý mà công lao của Ngôi chị đã gắng liền với quá trình tu học của tín đồ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Thể Liên Tiên Nữ đã, đang và sẽ là tiền bối chung của Đạo Cao Đài.
Tuy nhiên, vì Ngôi Chị Thể Liên là tiền nhân trực tiếp của Minh Chơn Lý ngày xưa và Cao Đài Chơn Lý ngày nay, cho nên nhiều đồng đạo đang ngày ngày tụng đọc kinh sách do chính ngôi chị giáng nhưng chưa mấy quan tâm đến tiểu sử và công lao của Ngôi Chị dẫn đến việc ít biết Thể Liên Tiên Nữ là ai, chỉ biết đó là một bậc tiên, nhưng không ngờ rằng vị tiên đó là nhân vật sinh sống rất gần trong khoảng cách thể hệ với mình. Và cũng không có nhiều nơi thờ phượng Ngôi Chị Thể Liên như một bậc tiền nhân.
Hiện nay, chỉ có 2 Hội Thánh và 1 Giáo Hội còn tưởng nhớ Ngôi Chị Thể Liên Tiên Nữ mà thôi, đó là Hội Thánh Cao Đài Chơn Lý, Hội Thánh Cao Đài Việt Nam Bến Tranh và Giáo Hội Cao Đài Việt Nam Bình Đức.
Nếu đã công nhận đàn cơ do Ngôi Chị giáng là tiên cơ, và nếu đã sử dụng kinh sám do ngôi chị giáng dạy, thì dù không thờ phượng Thể Liên Tiên Nữ, thiết nghĩ chúng ta cần tìm hiểu sơ nét Ngôi Chị Thể Liên Tiên Nữ là ai. Vì vậy, việc tìm hiểu về Ngôi Chị Thể Liên là cần thiết và cần xem Ngôi Chị như một tiền nhân Đại Đạo vì sự ảnh hưởng của Ngôi Chị đã là sự ảnh hưởng rộng đến nhiều Hội Thánh, Thánh Thất, Thánh Tịnh…
Ghi chú:
[1] Thể Liên Tiên Nữ được các tín đồ Hội Thánh Cao Đài Chơn Lý gọi là Ngôi Chị, Ngôi Chị Thể Liên, Nữ Phước Thần, Tuyết Vân Đạo Cô… để thể hiện sứ kính trọng đồng thời thể hiện sự thân thương, gần gũi đối với Chị
[2] Hội Thánh Cao Đài Chơn Lý, (2008), Tuyển tập Thể Liên Tiên Nữ, trang 6.
[3] Hội Thánh Cao Đài Chơn Lý, (2008), Tuyển tập Thể Liên Tiên Nữ, trang 7.
[4] Thánh Chiếu Đức Lý Giáo Tông, Hội Thánh Cao Đài Chơn Lý (2008), sđd, trang 11.
[5] Việc đọc kinh Lạy Mẹ Đại Từ Đại Bi ở các thánh sở ngoài Cao Đài Chơn Lý có đảo 2 chữ là “hôm mai” và “mai hôm”.