ÍT LỜI GÓP VUI cho chủ đề trên
Tiểu đệ vốn vô ưu vô cảm nhưng cũng vẫn buồn vẫn vui vậy (đệ tự cười đệ vậy). Tiểu để cũng chẳng biết nói gì. Biển Đạo Pháp thênh thang mênh viễn diệu diệu có không cũng được mà có cũng được. Thôi thì, chúng ta đến với nhau bằng: tâm đối tâm. Xin quý anh, quý chị cười vui khẽ cho thắm nồng tình huynh đệ. Ngu đệ không dám có ý dạy. Ngu thì vẫn ngu mà dám dạy ai. Thôi thì cứ như Đạo Huynh Hoanhan nói, ai cũng có quyền theo cái duy chủ đức tin mình mà tấn bước.
Vậy, cho phép tiểu đệ có chút cảm về Phật Pháp Sắc Không. Sắc Không. Ngu đệ cũng xin phép nói lời khùng khùng mà chắc là khùng khùng thật "không cũng như không mà có thì vẫn là có". Về có không, đó là tinh hoa của đạo pháp mà người cùng Bát Đẳng Chơn Hồn phải nương mà học mãi để tấn hóa hoài trên con đường thiêng liêng hằng sống mà Đức Hộ Pháp dạy. Muốn biết có và không thật tướng của đạo pháp, thiết nghĩ rằng không phải chỉ là có của nhục nhãn, thấy và nghe của đôi mắt và cái trí phàm. Mà cái có và cái không Đạo Huynh 1234 nói là cái có và cái không được nhận dạng qua một cái TRÍ BÁT NHÃ mà nhà Phật thường dùng. BÁT NHÃ TRÍ tức sẽ chiếu kiến vạn hữu là không, vạn hữu là có.
"Chiếu kiến" nghĩa là "thấy toàn", là "soi sáng", là "tỏ ngộ", là "thông đạt", là "minh kiến". Thấy ở đây, không phải thấy bằng con mắt với 2 tròng trắng +2 tròng đen. Người chết cũng vẫn có những thứ đó, người sống cũng có thứ đó nhưng cái thấy ấy chỉ là "phàm kiến", không phải là "thánh kiến" của Đạo Pháp muốn nói. Đọc kinh thì cầu lý để hiểu hành sự. Có câu lục căn tiếp xúc với lục trần sanh ra lục thức. Đó là cội sanh khổ đau.
Nếu muốn chiếu kiến ngũ uẩn giai không thì phải dùng cái trí thanh, trí thanh ấy Phật Đạo gọi là TRÍ BÁT NHÃ, hay BÁT NHÃ TRÍ. Trí này không phải là trí của nhà toán học, nhà vật lý học, không phải là tiến sĩ tâm lý học, không phải là tiến sĩ thần học, tiến sĩ tôn giáo học lý luận bằng cái thấy của phàm tâm, tục trí. Bát Nhã trí là Trí của Phật, soi sáng mười phương. Theo cái thiển học của khaitam thì con người cần quán chiếu mà khơi lên TRÍ BÁT NHÃ. Nếu để làm như thế nghĩa là "quán" và hiểu cái "không" và sống trong cái "không" phải bằng tâm Bát Nhã hay là dụng trí Bát Nhã mà hành, tức là tri kiến trong tuệ giác của sự sáng suốt thực sự. Phật bảo quán Không để tìm tự tánh. Tự Tánh vốn là vô. Tánh vô nhưng lại là hữu diệu. Tánh không sanh cũng chẳng bị diệt khi nào, nghĩa là Đặc Tánh Vô Thường nhưng hằng hữu vì theo như Kinh Bát Nhã ám chỉ rằng chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng thêm, chẳng bớt, "không trí cũng không đắc". Bát Nhã Kinh dùng tự "không để phủ định tất cả nhằm biểu thị rằng cái Chơn Như hằng Bất Biến, không sanh, không diệt, tức trong diệt đã có sanh, trong sanh đã có diệt". Diệt thì sanh ngay lúc diệt, nên không thêm, không bớt. Ấy là Tự Tánh Như Lai. Về phương diện khác thì, chữ "không" trong trong Kinh cũng lại ám chỉ rằng, cái không để phủ định tất cả, phủ định để rốt ráo nhấn mạnh cái mặt đối lặp của nó trùng duyên ngay ấy, để rồi chúng sanh thấy để thấy 5 uẩn đều là không. Một góc nhìn khác, Phật dạy học về quán chỉ Không, tức là chúng ta cần tập tánh không không, đừng nhiễm, xem các sự điều là hư vô, ảo ảnh, tất cả đủ duyên hợp, hợp rồi tan. Đó là nguyên lý bất dịch để thấy, quán chiếu bằng Bát Nhã trí, nhằm cho tâm thanh, trí định, gom thần, tụ khí. Nếu con, chấp trước, nghĩ sau thì khí hao, thần tán mà không làm cho Diệu Tánh được hiện lộ minh quang.
Còn hành thì phải định căn trên Trí Huệ ấy, tức là Bát Nhã trí - nghĩa gốc của Bát nhã chuyên chỉ cho loại trí tuệ đặc biệt, phát sinh từ công hạnh tu hành theo pháp quán không mà chứng đắc tức là loại trí tuệ thanh tịnh của chư Phật vừa rỗng lặng vừa suốt soi, nhờ đó mà quán chiếu được thật tướng của các pháp và thấy rõ các pháp là không có tự tánh. Ðây không phải là loại trí tuệ thế trí biện thông ngôn từ siêu đẳng thế gian, chỉ có chứng ngộ mới có thể biết mùi của nói. Lý thuyết thì cần phân minh cho rõ để hành giả nương học mà hiểu vậy.
Phật nói vô trí cũng vô đắc, không sanh không diệt vì vạn hữu là tự tính luôn như thế, nào có sanh đâu mà có diệt. Nhưng kỳ thực, sự hiện hữu là mặc nhiên như thế. Thử định hiểu Linh Hồn tròn vuông ra sao?
Sự phủ định để thấy được cái bản chất nguyên thuỷ vĩnh toàn của vạn hữu.
Liên đới đến Bát Nhã Trí tức là nói đến Bát Nhã Tâm Kinh- gồm 260 chữ được tích góp thu gọn từ 720 TẠNG KINH. Bát Nhă Tâm Kinh là yếu quyết, là tinh hoa của Phật Giáo. Nhiều vị Thầy có nói rằng, Bát Nhã Tâm Kinh chỉ dành cho hạnh Bồ Tát, A La Hán thực thi hành. Nói như thế, nghĩa là nghĩa lý kinh dụng chữ QUÁN và ĐỊNH để chứng đắc. Người thường đọc cũng bằng thừa dư. Nhưng nói vậy cũng chưa hoàn toàn đúng vì Bát Nhã Tâm kinh giúp hành giả đắc LÝ, đắc Ý rồi chiếu soi vạn pháp, chứng đắc A Nậu Đa La Tam Diệu Tam Bồ Đề. Kinh Phật và các vị Tổ Sử (như cuốn Bồ Đề Quán Tâm Pháp) cho ra đời nhằm cứu chúng sanh thức giác, hiểu lý trực chỉ nhân tâm mà ngộ; thế nên ai cũng có thể đọc và học. Học được gì, hiểu được gì thì cứ hành. Phật Thích Ca ngày xưa cũng thiền định quán chiếu mà chứng ngộ. Chúng sanh, quán ngộ TÁNH KHÔNG bằng QUÁN, CHỈ, ĐỊNH bằng Tâm Bát Nhã thì còn gì bằng nữa.
Bát Nhã Tâm, chúng ta nên đọc hiểu nghĩa và bài giảng rồi hành theo đơn kinh. Kinh này là dụng QUÁN TƯỞNG mà đắc nhất đó. Có mà không, không mà có. Con người từ không mà ra có, từ có trở về không (chết), nhưng trong cái không lại có (linh hồn). Cái không là vô vi. Trong mờ mờ mịt mịt thì đó là cái KHÔNG, giữa cái mịt mịt mờ mờ thì có ánh sáng NHƯ LAI chiếu soi mười phương, vạn pháp biến xuất từ đó. Cái đó gọi là CÓ. Vậy trong cái không lại có cái CÓ, trong cái CÓ lai chứa cái không bất thường. Thế gian là hữu sắc nên "sắc tức thị không". Nhưng có cái sống HẰNG HỮU - NHƯ LAI TÍNH nên "không tức thị sắc" . CÓ và KHÔNG là hai trạng thái luôn thường hằng cho hành giả tu tiến mà phản tỉnh BỔN TÂM.
Vài ý thiển dốt.
Bách bái!