<P><FONT face="Times New Roman, Times, serif" size=4></FONT> </P>
<P> <FONT size=4><strong><FONT face="Times New Roman, Times, serif">Ngày </FONT><FONT face="Times New Roman, Times, serif">Kỷ niệm : </FONT></strong></FONT></P>
<P><strong><FONT face="Times New Roman" size=4> <FONT color=#ff0000>Ð</FONT><FONT color=#ff0000>ỨC NGÔ VĂN CHIÊU</FONT></FONT></strong></P>
<P><FONT color=#000000> <FONT face="Times New Roman" size=4>Ngày lễ kỷ niệm Ðức Ngô Văn Chiêu , người đệ tử đầu tiên của Ðạo Cao Ðài ; hay nói khác hơn là người sáng lập Ðạo Cao Ðài , chúng tôi tưỡng cũng nên nói lên cuộc đời và sứ mạng của Ngài trong nền Ðại Ðạo để chúng ta noi gương mà tu học .</FONT></FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Ngài Ngô Văn Chiêu , danh đạo là Ngô Minh Chiêu , sanh ngày mồng 7 tháng Giêng năm Mậu Dần, nhằm ngày 18.02. 1878 tại Quận Bình Tây, Chợ Lớn , là vị đã sáng khai nền Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ và cũng là người đệ tử đầu tiên của Ðức Cao Ðài. </FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Năm 06 tuổi , Ngài sống với người cô tại Mỹ Tho và ăn học cho tới năm 21 tuổi thì thi đậu bằng Thành Chung và ra làm việc tại Toà án Sàigòn từ ngày 22.3.1899 cho tới ngày 31.12. 1902. </FONT></P>
<P><FONT size=4><FONT face="Times New Roman"> <FONT face="Times New Roman, Times, serif">Năm 1917 Ngài thi đậu Tri Huyện và qua cuối năm 1919 thì Ngài được lịnh đổi đi Hà Tiên. Lúc bấy giờ Ngài đã lập gia đình với Bà Bùi thị Thân , sinh quán tại Mỹ Tho và có với nhau tất cả 9 người con.</FONT></FONT></FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Ngài làm việc tại Hà Tiên được một ít lâu thì đổi ra Phú Quốc , nhằm ngày 26.10.1920. Tại Phú Quốc , Ngài thường lên núi Dương Ðông cầu cơ và mỗi lần đều được cơ Tiên giáng dạy . Sau đó,có một Tiên Ông nhận Ngài làm đệ tử và sau một buổi giáng cơ có dạy như vầy :"CHIÊU tam niên trường trai " Và kể từ ngày 9.2.1921 thì Ngài khởi sự trường trai học đạo với Tiên Ông và nhận bí truyền để tu luyện , nhưng được dạy phài giữ kín cho đến kỳ khai đạo.</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Theo kinh<FONT face="Times New Roman, Times, serif"> sách ghi lại, một chiều kia , theo sự ước nguyện của Ngài, trong khi Ngài đang hóng mát ngoài mé biển , thì từ từ hiện ra trước mắt Ngài một cảnh Bồng lai vô cùng xinh đẹp, khoảng chừng giây lát thì cảnh ấy mới lu dần rồi biến mất. Ðó là Tiên Ông đã cho Ngài thấy rõ sự nhiệm mầu để cho Ngài nung chí mà tu học.</FONT></FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Sau đó , vào một buổi sớm mai , lúc 8 giờ, khi Ngài đang ngồi trên võng nơi nhà thì bỗng nhiên Ngài thấy trước mắt khoảng độ 2 thước , hiện ra một con mắt thật lớn, hào quang chói ngời như mặt trời . Ngài lấy làm sợ hãi, lấy tay bụm mắt, chẳng dám nhìn. Một lát Ngài mở mắt ra thì lại thấy hào quang càng chói rạng thêm thêm lên. Ngài bèn chấp tay và vái rằng <EM>: " Bạch Tiên Ông , đệ tử đã rõ biết cái huyền diệu của Tiên Ông rồi. Ðệ tử xin Tiên Ông đừng làm vậy, đệ tử sợ lắm. Như phải Tiên Ông bão thờ như thế , thì xin cho biến mất tức thì ."</EM> Ngài vừa vái xong thì con mắt lu dần rồi biến mất.</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Ít hôm sau , Ngài cầu cơ hỏi cách thờ phượng, thì Tiên Ông dạy vẽ con mắt như Ngài đã được thấy để thờ và bấy giờ mới xưng tên là : CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT và dạy Ngài phải gọi bằng THẦY mà thôi. Ðó là vào năm Tân Dậu (1921) , Ðạo Cao Ðài ra đời , và từ đó mới phát nguyên sự tích thờ phượng một biểu tượng chơn lý là Thiên Nhãn. Mãi gần cuối năm Ất Sửu (1925) Ðức Cao Ðài mới dạy Ngài đem mối Ðạo truyền ra.</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Vào ngày mồng 9 tháng Giêng, nhằm ngày vìa Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế , Thầy có về đàn và dạy rằng :</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> " <strong>Bữu Tòa thơ thới trổ</strong> <strong>thêm hoa </strong></FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4><strong> Mấy nhành rồi sau cũng một nhà </strong></FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4><strong> Chung hiệp rán vun nền đạo đức </strong></FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4><strong> Bền lòng son sắt đền cùng ta. </strong>"</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman, Times, serif" size=4> Trong một đàn cơ được lưu lại. Vào ngày 14.4.1926 Ðức Thượng Ðế có dạy Ngài may một bồ Thiên phục màu trắng , có chữ Càn của Bát Quái , thêu chỉ màu vàng để lãnh chức Giáo Tông. Tuy nhiên Ngài xin từ chối, vì ý nguyện của Ngài là quyết chi tu hành cho thành đạo , chứ không chú ý đến chức tước phẩm vị, áo mão cân đai. </FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman, Times, serif" size=4> Cũng theo Thiên ý , Ngài giữ đúng việc tu hành như Thượng Ðế chỉ dạy. Ngài có khẩu truyền Bí Pháp cho một số đệ tử sau nầy được biết đến qua danh từ Chiếu Minh hay Tam Thanh Vô Vi là phần tu thuộc về Nội pháp Tâm Truyền của Cao Ðài Ðại Ðạo. Ðức Ngô Minh Chiêu đã thọ lãnh bí pháp mầu nhiệm tinh vi, mới mẽ nhất trong cơ siêu phàm nhập Thánh của Ðúc Cao Ðài truyền dạy. Theo chơn truyền của Ngài , việc tu nhơn đạo và thiên đạo phải song song . Hiện nay phần Vô Vi lấy quyển Ðại Thừa Chơn Giáo làm phương châm tu học.</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Cuối năm 1931, Ðức Ngô Văn Chiêu tu được 11 năm. Ngài liểu đạo vào ngày 13 tháng 3 năm Nhâm Thân, tức ngày 18.4.1932, lúc 3 giờ chiều, trên đò giữa sông Tiên Giang ở Cần Thơ , đúng như tiền định mà THẦY đã cho biết trước :</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> " Giờ nầy THẦY điểm thâm công </FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman, Times, serif" size=4> Ngày sau con sẽ cỡi Rồng về Nguyên."</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Ðiểm đặc biệt là sau khi Ðức Ngô Văn Chiêu chết, con mắt bên trái Ngài lần lần mở ra mỗi ngày một lớn , đầy đủ tinh thần như người sống vậy . Ðó là một ấn chứng cho thấy rõ sự thành đạo của Ngài mà cũng là sư nhiệm mầu của Thiên Nhãn vậy.</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Cuộc đời của Ðức Ngô là một cuộc đời sáng tạo . Ngài là cái cửa mở vào vô vi mầu nhiệm , dẫn lối cho thiện căn tìm về cựu vị. Ngài sống trong sự cao vọi nhưng lại âm thầm kín đáo với lối ẩn tu khổ hạnh . Ngài là một gương mẫu trong cách tu tại gia ( đời đạo song tu ) không vì Ðời mà lơi Ðạo , mà cũng không vì Ðạo mà bỏ Ðời ( ly gia ). Ngài làm quan rất thanh liêm , mà cũng làm tròn bổn phận cha hiền con thảo. Cuộc sống của Ngài rất thanh bạch, làm việc quan mà chẳng lạm của dân " <strong>Nhất hào</strong> <strong> vô phạm</strong> " là tâm niệm của Ngài đã nêu gương sáng trong cảnh thế nhân còn được truyền tụng.</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Hôm nay chúng ta là môn đệ Ðức Chí Tôn , tề tựu đông đủ về tại Thánh sở , để truy niệm , để kính mừng Người Anh Cả , mục đích không phải để tôn vinh Ngài, vì từ hồi còn sanh tiền Ngài đã không cần ai ca tụng để lãnh phần hãnh diện nơi thế gian này . Luôn cả phẩm vị Giáo Tông, một phẩm vị trên cả trong nền Ðạo Cao Ðài được chính Ðức Thượng Ðế ban phong mà Ngài không nhận lãnh dù chúng ta có tôn vinh Ngài bằng những lời lẽ cao vọi đến đến đâu chắc chắn điều đó cũng không hợp với ý Ngài. Nhưng chúng ta là những kẻ uống nước , ăn trái phải nhớ đến công ngưòi đào giếng, trồng cây, nhớ đến công ơn khai sáng của một bậc tiền nhân đã đến thế gian nầy để làm cho con người gương mẫu, đã hy sinh trọn vẹn đời mình , để thể thể hiện cứu cánh của nền Ðại Ðạo, chúng ta không thể nào không nhắc đến Ngài để hằng noi gương Ngài trên bước đường tu trở về hiệp nhất cùng Thượng Ðế. /- </FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> ___________</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Trích ra bởi tập san TRUNG HÒA từ trang 122 -125.trong dịp lễ Lễ Kỹ Niệm ngày Khai Ðạo 15.10 năm Qúy Dậu.</FONT></P>
<P> <FONT size=4><strong><FONT face="Times New Roman, Times, serif">Ngày </FONT><FONT face="Times New Roman, Times, serif">Kỷ niệm : </FONT></strong></FONT></P>
<P><strong><FONT face="Times New Roman" size=4> <FONT color=#ff0000>Ð</FONT><FONT color=#ff0000>ỨC NGÔ VĂN CHIÊU</FONT></FONT></strong></P>
<P><FONT color=#000000> <FONT face="Times New Roman" size=4>Ngày lễ kỷ niệm Ðức Ngô Văn Chiêu , người đệ tử đầu tiên của Ðạo Cao Ðài ; hay nói khác hơn là người sáng lập Ðạo Cao Ðài , chúng tôi tưỡng cũng nên nói lên cuộc đời và sứ mạng của Ngài trong nền Ðại Ðạo để chúng ta noi gương mà tu học .</FONT></FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Ngài Ngô Văn Chiêu , danh đạo là Ngô Minh Chiêu , sanh ngày mồng 7 tháng Giêng năm Mậu Dần, nhằm ngày 18.02. 1878 tại Quận Bình Tây, Chợ Lớn , là vị đã sáng khai nền Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ và cũng là người đệ tử đầu tiên của Ðức Cao Ðài. </FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Năm 06 tuổi , Ngài sống với người cô tại Mỹ Tho và ăn học cho tới năm 21 tuổi thì thi đậu bằng Thành Chung và ra làm việc tại Toà án Sàigòn từ ngày 22.3.1899 cho tới ngày 31.12. 1902. </FONT></P>
<P><FONT size=4><FONT face="Times New Roman"> <FONT face="Times New Roman, Times, serif">Năm 1917 Ngài thi đậu Tri Huyện và qua cuối năm 1919 thì Ngài được lịnh đổi đi Hà Tiên. Lúc bấy giờ Ngài đã lập gia đình với Bà Bùi thị Thân , sinh quán tại Mỹ Tho và có với nhau tất cả 9 người con.</FONT></FONT></FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Ngài làm việc tại Hà Tiên được một ít lâu thì đổi ra Phú Quốc , nhằm ngày 26.10.1920. Tại Phú Quốc , Ngài thường lên núi Dương Ðông cầu cơ và mỗi lần đều được cơ Tiên giáng dạy . Sau đó,có một Tiên Ông nhận Ngài làm đệ tử và sau một buổi giáng cơ có dạy như vầy :"CHIÊU tam niên trường trai " Và kể từ ngày 9.2.1921 thì Ngài khởi sự trường trai học đạo với Tiên Ông và nhận bí truyền để tu luyện , nhưng được dạy phài giữ kín cho đến kỳ khai đạo.</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Theo kinh<FONT face="Times New Roman, Times, serif"> sách ghi lại, một chiều kia , theo sự ước nguyện của Ngài, trong khi Ngài đang hóng mát ngoài mé biển , thì từ từ hiện ra trước mắt Ngài một cảnh Bồng lai vô cùng xinh đẹp, khoảng chừng giây lát thì cảnh ấy mới lu dần rồi biến mất. Ðó là Tiên Ông đã cho Ngài thấy rõ sự nhiệm mầu để cho Ngài nung chí mà tu học.</FONT></FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Sau đó , vào một buổi sớm mai , lúc 8 giờ, khi Ngài đang ngồi trên võng nơi nhà thì bỗng nhiên Ngài thấy trước mắt khoảng độ 2 thước , hiện ra một con mắt thật lớn, hào quang chói ngời như mặt trời . Ngài lấy làm sợ hãi, lấy tay bụm mắt, chẳng dám nhìn. Một lát Ngài mở mắt ra thì lại thấy hào quang càng chói rạng thêm thêm lên. Ngài bèn chấp tay và vái rằng <EM>: " Bạch Tiên Ông , đệ tử đã rõ biết cái huyền diệu của Tiên Ông rồi. Ðệ tử xin Tiên Ông đừng làm vậy, đệ tử sợ lắm. Như phải Tiên Ông bão thờ như thế , thì xin cho biến mất tức thì ."</EM> Ngài vừa vái xong thì con mắt lu dần rồi biến mất.</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Ít hôm sau , Ngài cầu cơ hỏi cách thờ phượng, thì Tiên Ông dạy vẽ con mắt như Ngài đã được thấy để thờ và bấy giờ mới xưng tên là : CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT và dạy Ngài phải gọi bằng THẦY mà thôi. Ðó là vào năm Tân Dậu (1921) , Ðạo Cao Ðài ra đời , và từ đó mới phát nguyên sự tích thờ phượng một biểu tượng chơn lý là Thiên Nhãn. Mãi gần cuối năm Ất Sửu (1925) Ðức Cao Ðài mới dạy Ngài đem mối Ðạo truyền ra.</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Vào ngày mồng 9 tháng Giêng, nhằm ngày vìa Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế , Thầy có về đàn và dạy rằng :</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> " <strong>Bữu Tòa thơ thới trổ</strong> <strong>thêm hoa </strong></FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4><strong> Mấy nhành rồi sau cũng một nhà </strong></FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4><strong> Chung hiệp rán vun nền đạo đức </strong></FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4><strong> Bền lòng son sắt đền cùng ta. </strong>"</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman, Times, serif" size=4> Trong một đàn cơ được lưu lại. Vào ngày 14.4.1926 Ðức Thượng Ðế có dạy Ngài may một bồ Thiên phục màu trắng , có chữ Càn của Bát Quái , thêu chỉ màu vàng để lãnh chức Giáo Tông. Tuy nhiên Ngài xin từ chối, vì ý nguyện của Ngài là quyết chi tu hành cho thành đạo , chứ không chú ý đến chức tước phẩm vị, áo mão cân đai. </FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman, Times, serif" size=4> Cũng theo Thiên ý , Ngài giữ đúng việc tu hành như Thượng Ðế chỉ dạy. Ngài có khẩu truyền Bí Pháp cho một số đệ tử sau nầy được biết đến qua danh từ Chiếu Minh hay Tam Thanh Vô Vi là phần tu thuộc về Nội pháp Tâm Truyền của Cao Ðài Ðại Ðạo. Ðức Ngô Minh Chiêu đã thọ lãnh bí pháp mầu nhiệm tinh vi, mới mẽ nhất trong cơ siêu phàm nhập Thánh của Ðúc Cao Ðài truyền dạy. Theo chơn truyền của Ngài , việc tu nhơn đạo và thiên đạo phải song song . Hiện nay phần Vô Vi lấy quyển Ðại Thừa Chơn Giáo làm phương châm tu học.</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Cuối năm 1931, Ðức Ngô Văn Chiêu tu được 11 năm. Ngài liểu đạo vào ngày 13 tháng 3 năm Nhâm Thân, tức ngày 18.4.1932, lúc 3 giờ chiều, trên đò giữa sông Tiên Giang ở Cần Thơ , đúng như tiền định mà THẦY đã cho biết trước :</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> " Giờ nầy THẦY điểm thâm công </FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman, Times, serif" size=4> Ngày sau con sẽ cỡi Rồng về Nguyên."</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Ðiểm đặc biệt là sau khi Ðức Ngô Văn Chiêu chết, con mắt bên trái Ngài lần lần mở ra mỗi ngày một lớn , đầy đủ tinh thần như người sống vậy . Ðó là một ấn chứng cho thấy rõ sự thành đạo của Ngài mà cũng là sư nhiệm mầu của Thiên Nhãn vậy.</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Cuộc đời của Ðức Ngô là một cuộc đời sáng tạo . Ngài là cái cửa mở vào vô vi mầu nhiệm , dẫn lối cho thiện căn tìm về cựu vị. Ngài sống trong sự cao vọi nhưng lại âm thầm kín đáo với lối ẩn tu khổ hạnh . Ngài là một gương mẫu trong cách tu tại gia ( đời đạo song tu ) không vì Ðời mà lơi Ðạo , mà cũng không vì Ðạo mà bỏ Ðời ( ly gia ). Ngài làm quan rất thanh liêm , mà cũng làm tròn bổn phận cha hiền con thảo. Cuộc sống của Ngài rất thanh bạch, làm việc quan mà chẳng lạm của dân " <strong>Nhất hào</strong> <strong> vô phạm</strong> " là tâm niệm của Ngài đã nêu gương sáng trong cảnh thế nhân còn được truyền tụng.</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Hôm nay chúng ta là môn đệ Ðức Chí Tôn , tề tựu đông đủ về tại Thánh sở , để truy niệm , để kính mừng Người Anh Cả , mục đích không phải để tôn vinh Ngài, vì từ hồi còn sanh tiền Ngài đã không cần ai ca tụng để lãnh phần hãnh diện nơi thế gian này . Luôn cả phẩm vị Giáo Tông, một phẩm vị trên cả trong nền Ðạo Cao Ðài được chính Ðức Thượng Ðế ban phong mà Ngài không nhận lãnh dù chúng ta có tôn vinh Ngài bằng những lời lẽ cao vọi đến đến đâu chắc chắn điều đó cũng không hợp với ý Ngài. Nhưng chúng ta là những kẻ uống nước , ăn trái phải nhớ đến công ngưòi đào giếng, trồng cây, nhớ đến công ơn khai sáng của một bậc tiền nhân đã đến thế gian nầy để làm cho con người gương mẫu, đã hy sinh trọn vẹn đời mình , để thể thể hiện cứu cánh của nền Ðại Ðạo, chúng ta không thể nào không nhắc đến Ngài để hằng noi gương Ngài trên bước đường tu trở về hiệp nhất cùng Thượng Ðế. /- </FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> ___________</FONT></P>
<P><FONT face="Times New Roman" size=4> Trích ra bởi tập san TRUNG HÒA từ trang 122 -125.trong dịp lễ Lễ Kỹ Niệm ngày Khai Ðạo 15.10 năm Qúy Dậu.</FONT></P>