BẢY BƯỚC TRÊN ĐƯỜNG TU TIẾN
Thường thường, người vào đạo có quan niệm là ăn chay, niệm Phật, tụng kinh, sám hối, hành thiện để nhờ phước huệ Trời ban. Nhưng có mấy ai chịu khó phân tách những giai đoạn tiến triển trong khoảng đời lập thân hành đạo và cũng có mấy ai chịu khó kiểm điểm xem sự tu học mình đã đến trình độ nào.
Do đó nên sự tiến thối, thăng đọa từng ngày một đã xảy ra không biết bao lần mà không hay không biết.
Hôm nay, Bần Đạo phân tách những nét chính của những giai đoạn của đời người tu học để chư hiền đệ muội xem kỹ rồi tự trắc nghiệm bản thân mình, sau đó sẽ thấy rõ công nghiệp đức hạnh trong đời tu của mình đã đến mức nào rồi.
Những giai đoạn đó có thể tạm chia như sau:
1. Là Nhập Môn, nhập đạo hay quy y cũng thế
2. Là giữ đạo
3. Là học đạo
4. Là hiểu đạo
5. Là tu thân lập hạnh
6. Là hành đạo
7. Là Thánh Thiện hay Thánh Tâm hay giải thoát cũng thế
Đây Bần Đạo sẽ diễn tả từng điểm một:
- Một là NHẬP MÔN: (nhập Đạo hay Quy Y)
Vì muốn xa lánh những điêu ngoa tội lỗi, xảo trá sa đọa của nhân thế thường tình nên chọn một con đường để đời mình lấy đó làm lẽ sống, thích hợp với tâm linh thuận Thiên hòa nhân, nên phải đặt mình vào một nếp sống đạo lý. Đó là động lực thúc đẩy mình phải chọn một đoàn thể đạo đức hay một tôn giáo nào để nhập môn qui y.
Khi nhập môn rồi, đương nhiên tên, họ, lý lịch mình sẽ được ghi vào lịch đạo của tôn giáo đó và chịu theo nếp sinh hoạt của tôn giáo đó từ nội qui đến giáo thuyết, giáo điều. Còn về phần thiêng liêng thì cũng đã được ghi danh tánh vào Thánh tịch hoặc Tiên tịch hay Phật tịch.
- Hai là GIỮ ĐẠO:
Giữ Đạo nơi đây có nghĩa là tôn trọng nội qui luật lệ, giáo thuyết, giáo điều của tôn giáo đó không dám làm trái lại. Nếu nhập môn quy y mà không giữ Đạo, chẳng khác chi một bịnh nhơn đến pháp sư xin sợi niệt, lá bùa về treo trên ngạch cửa hoặc đeo vào cổ.
(Thí dụ: người giữ đạo phải ăn chay, giữ giới cấm, đến chùa thất hàng tháng, không được làm một số nghề như buôn bán ma túy, rượu mạnh, sát sanh hại vật …)
Đức LÝ GIÁO TÔNG có dạy:
“Ví như có lần đã dạy: Một quyển sách vần A, B, C… không làm cho học sinh trở nên hàng bác học, nhưng muốn trở nên hàng bác học phải khởi thỉ và trải qua quyển sách vần ấy v.v..
Từ cái giả đến cái chân, phải chịu khó suy nghĩ biện luận để áp dụng và thực thi nó cho đúng chỗ, đúng lúc. Chư hiền đệ muội vào cửa đạo tuy là khó, nhưng cũng còn dễ hơn là giai đoạn học đạo, hành đạo và đắc đạo.”
- Ba là HỌC ĐẠO:
Điều nầy mới bắt đầu hữu ích cho sự mở mang kiến thức. Học đạo từ người nầy truyền pháp cho người khác, hoặc xem kinh điển căn bản về giáo lý để biết được điều nào nên làm, nên nói, nên suy nghĩ và việc nào không nên làm không nên nói, không nên suy nghĩ. Việc nào là thuận Thiên hòa nhân, việc nào là nghịch Thiên phản nhân,v.v…
Nếu giữ đạo mà không học đạo, chẳng khác chi một người học sửa máy thu thanh chỉ mua cái máy đem về để đó, hằng ngày đi ra đi vào, đi tới đi lui, trông bề ngoài cái máy ấy mà không chịu khó mở ra các bộ phận bên trong để nghiên cứu hoặc học hỏi, hoặc nhờ người chuyên nghiệp chỉ giúp.
Các Đấng Thiêng Liêng khác cũng dạy:
▪ “Tu phải học hiểu qua giáo lý,
Giáo lý là kim chỉ hướng Nam;
Cho con nhập Thánh siêu phàm,
Khỏi vòng luân chuyển con tằm nhộng tơ.”
(Đức Mẹ Diêu Trì)
▪ “Tu không học hỏi tu mù... ...
Tu mà không học ... như mù đi đêm.”
(Đức Lý Giáo Tông)
▪ "Tu phải học, học để hiểu rõ ngọn nguồn. Hiểu phải hành cho kiên trì nhẫn nại liên tục để phát triển Thánh Tâm, mở mang Thánh Ý, khêu tỏ ngọn đèn từ huệ nội tâm của mỗi người.
Sự tu học tuy dễ mà khó. Dễ ở chỗ không ai bắt buộc gò bó, đóng khung mình trong một luật lệ nghiêm khắc, chỉ do nơi tự giác tự nguyện của mình mà thôi. Hễ vui thì đi chùa thất hoặc đến giảng đường nghe giảng đạo hàng tuần, lúc buồn hoặc biếng lười thì ở nhà ngủ ráng năm ba kỳ không sao...
Thế nên người tu học phải tự mình đặt cho mình một kỷ luật riêng tư khắt khe gò bó, vừa với sức mình rồi hằng ngày tuần tự nhi tiến đều đều liên tục.”
Riêng đối với thành phần đạo hữu trẻ là con em nhà đạo, Ơn trên động viên khuyến khích thanh thiếu niên phải song hành cố gắng học văn hóa, khoa học, kỷ thuật trong đời vừa siêng năng học đạo lý:
“Học tập là kiến tạo tri thức để phụng sự xã hội. Tu tập là xây dựng ý thức tinh thần để cải tạo xã hội.
Có học, có tiến, có hành động mới dìu dắt được mình, cộng đồng mình và xã hội vượt qua bóng tối của tầm thường chật hẹp trong đời sống vật chất, trong phạm vi kiến năng. Có tu, có đức, có hiến dâng mới đem đạo vào đời làm rạng danh Thượng Đế. Nhờ đó xã hội trở nên lành mạnh hóa, đi lần đến Thánh đức tại thế gian. ”
Để đạt được ước vọng đó, trước tiên phải ý thức:
“Nếu muốn biểu dương giáo lý Cao Đài là quy Tam giáo nó phải đòi hỏi đến sự học thức rộng rải từ văn chương đến pháp đạo. Phải thông rành luật lệ ngọn ngành trong Tam Giáo rồi còn phải đòi hỏi đến sinh ngữ nữa, ví dụ một khi đoàn hướng đạo Cao Đài đi ngoại quốc đến một sắc dân nào cố nhiên phải đòi hỏi sinh ngữ ấy… … Đó các hiền hướng đạo thấy trách nhiệm quan trọng dường bao. Con đường nhứt định phải đến nhưng bao giờ sẽ đến. Vậy thì… sau đây ai là người thiết tha vì chơn lý đạo thì nên tìm học những nhu cầu mà Bần Đạo vừa tạm sơ qua.
Sự học phải đòi hỏi cấp bách nếu thời kỳ này không thực hiện được, thì Thượng Đế buộc lòng phải đem chánh pháp giao cho một dân tộc khác. Rồi chừng ấy con cái Đức Cao Đài hiện tại sẽ ăn năn nhưng quá muộn.”
- Bốn là HIỂU ĐẠO:
Điều nầy đã bắt đầu hơi khó rồi. Nói rằng hiểu đạo ai cũng có thể nói được. Nhưng hiểu cho đúng lại là một việc khác. Thế thường, mỗi người hiểu đạo một cách khác nhau vì hoàn cảnh, nghề nghiệp, tập quán, xu hướng...v.v... Chính điều đó là điều rắc rối.
Thí dụ: giải nghĩa câu "Vật dưỡng nhơn"
• Có người nói theo nghĩa là các con vật phải phục vụ cho người nhứt là chúng phải chết để làm miếng ngon, thịt béo nuôi dưỡng con người. Biện luận như vậy để hợp thức hóa các trường hợp sát sanh.
• Có người lại giải nghĩa câu ấy như vầy: "Vật dưỡng nhơn" là ý Thượng Đế muốn an bài cho vạn vật, vì lòng háo sanh. Vật nơi đây có nghĩa là: hoa quả, thảo mộc, ngũ hành để lấy đó biến chế tất cả vật cần thiết để dùng trong mọi trường hợp. Như nhà ở, áo mặc cơm ăn, nước uống, phương tiện di chuyển như thủy lục không bộ hành.
Tất cả phương tiện đó xuất phát tự ngũ hành mà ra, trở thành vật dụng do trí khôn ngoan của Thượng Đế sẵn ban cho mỗi người, từ dân quê mùa dốt nát đến hàng bác học siêu nhân.
• Một thí dụ khác nữa: như con người khôn ngoan, khi bịnh hoạn ốm đau có lương y, bác sĩ, lang ta, lang tây. Hỏi vậy con cá dưới nước, con chim trên rừng, con thú trong hang không có lương y rồi chúng nó tuyệt nòi tuyệt giống hết sao? Chúng vẫn có bản năng tự vệ, bản năng tự tồn mà những bản năng đó cũng từ đức háo sanh Thượng Đế an bài cho chúng thôi. Vật dưỡng nhơn hay vật dưỡng vật phải hiểu nghĩa như vậy. Đừng nên nghĩ khác mà trái với đức háo sanh luật bảo tồn vạn vật của Tạo Hóa.
Thử đem so sánh hai định nghĩa như trên sẽ thấy ngay rằng hiểu thế nào là đúng thế nào là sai.
Cũng như hai tiếng "tự do" phải hiểu nghĩa trong sự tự do của mình đừng vì đó mà làm mất tự do kẻ khác. Như vậy mới thực sự là tự do....
Hiểu đạo nơi đây chẳng những do sự học hỏi từ kinh điển, Thánh Ngôn Thánh Giáo mà lại còn hiểu do nơi tham thiền nhập định phát huệ tâm linh. Đó là hiểu về nội tâm.
Phải là bực tu hành chí chơn chí chánh, lòng được trống không, diệt trừ tư tâm bản ngả, tham vọng, đương nhiên cái chơn từ từ lố dạng và ứng hiện lên để cõi lòng thơ thới, hoan hỉ tiếp nhận là một môn học quí vô giá.
Có hiểu đạo mới biết được vị trí của con người đứng chỗ nào trong tam tài và trong vạn linh, và hiểu mình phải làm và bắt buộc, tự nguyện phải làm những gì để gọi là tùng Thiên Lý, phụng sự Thiên Cơ.
- Năm là TU THÂN - LẬP HẠNH:
Nếu hiểu đạo mà không tu thân, là người trốn trách nhiệm. Cũng như một đứa bé vừa tập nói chuyện, bảo chúng đọc một trang thơ lục bát. Chúng vẫn đọc lưu loát, nhưng không hiểu nghĩa thế nào.
Tu thân nơi đây là bước đầu cho sự thanh lọc, dọn mình lập hạnh, khắc kỷ tùng đạo. Có tu thân, con người mới mong tránh sự lỗi lầm do những việc thường nhựt chung đụng với đời sống chung quanh. Có tu thân, con người mới mong hoàn thiện để trở nên hạt giống tốt cho thế hệ hiện tại, cũng như thế hệ ở tương lai. Khi tu thân được hoàn thiện rồi bước ra đường đời không gây điều tổn đức thất nhân tâm, tổn nhân ích kỷ.
Các Đấng Thiêng Liêng khác cũng dạy:
▪ “Chỉ có tu thân thoát ngục tù,
Ngục tù thế sự quá âm u;
Tham sân si dục bền vây chặt,
Gươm huệ không mài nhốt vạn thu.”
(Đức Lê Đại Tiên)
▪ "Về giá trị con người trong hàng tín hữu chức việc hoặc chức sắc, muốn có được phẩm vị cao quí để thể hiện đức độ của người tu, điều cần yếu là phải lập hạnh, vì có hạnh đương nhiên có phẩm, gọi tắt là PHẨM HẠNH.
Bốn tiếng CÔNG ĐỨC PHẨM HẠNH luôn luôn phải được gắng bó nhau để con người tu thân hành đạo có được tác phong đứng đắn, dễ gây thiện cảm kính nể mến yêu với những người chung quanh mình……
Trong lãnh vực tu thân lập hạnh hành đạo, Thiêng liêng thường dạy môn đồ phải gia công hành đạo, vì nhờ có công mới có đức, gọi tắt là CÔNG ĐỨC "
Chúng ta sang giai đoạn thứ sáu
- Sáu là HÀNH ĐẠO:
Hành đạo là bước đầu xây dựng nền tảng âm chất vững chắc cho tòa lâu đài thánh thiện. Nhờ hành đạo mà các hàng Thần Thánh Tiên Phật càng ngày càng được phẩm vị cao siêu.
Tu thân và hành đạo phải gắn liền nhau như gấm thêu hoa. Tu thân và hành đạo cần phải được hỗ tương nhau để tiến hóa. Nếu hành đạo mà không tu thân là thiếu căn bản lương thiện. Nếu tu thân mà thiếu hành đạo thì sự tiến hóa bị chậm trễ không biết ngần nào.
Cùng loài sâu từ con bướm đẻ trứng, trứng nở thành sâu, nếu con sâu ấy có biết chăm sóc nuôi dưỡng sẽ trở thành tằm kéo tơ phục vụ loài người, công quả đáng kể. Cũng loài sâu, nếu không người, không sự chăm sóc nuôi dưỡng thì sâu cũng là sâu không ngày thành bướm.
Việc Hành đạo lập công bồi đức cũng được các Đấng Thiêng Liêng dạy:
▪ "Sự hành đạo lập công bồi đức là tự cải tiến cho mình trở nên hàng thánh thiện.
Ví như người trèo cây hoặc leo núi, đi lên thì thấy bao nỗi khó khăn, nhưng đã trỗi được từng bước một là đã được gần tới điểm cao, nếu quày trở xuống thì rất dễ dàng có nhiều sự giúp sức cho trở xuống.
Thế nên Thánh xưa có nói vài câu đơn giản... "Quân tử ưu đạo bất ưu thực" hoặc "Quân tử ưu đạo bất ưu nhàn" hay "Chí quân tử thực vô cầu bảo, cư bất cầu an". Bởi vì tất cả nhu cầu tạm bợ đã có tạm đủ, không phải bận tâm cho lắm, để có thì giờ thực hành đạo sự là vậy đó."
▪ “Vẫn biết rằng các em có thể ở tại nhà giữ đạo, ăn chay tứ thời tụng niệm, lúc nào siêng thì đi chùa thất, lúc nào không siêng thì nằm nhà, lâu lâu gởi giúp ít nhiều tiền bạc để cho danh mình còn dính líu cũng được, không ai có quyền ép buộc. Như vậy cũng khá hơn những chị em khác không làm được vậy, hoặc những chị em khác nữa lại còn bê bối hơn.
Lời tục thường ví: "Một đám người mù, kẻ chột làm vua". Chị muốn hỏi, các em muốn làm vua chột chăng? Hay là làm một người có đủ nhãn quan hành đạo tế thế an bang nhưng trong phạm vi vô danh, chẳng chức tước, không vị ngôi?
Các em ơi! Một khúc gỗ to, từ dốc cao lăn xuống gây cho nhiều người chết chóc tàn tật cũng là khúc gỗ. Khúc gỗ khác vùi lấp dưới bùn sình, theo tuổi thời gian rất hiền lành không gây hại ai hết. Nhưng cũng có một hoặc những khúc gỗ khác được đem ra cưa bào đục chạm sơn son phết vàng tạc nên hình bạch mã thờ ở đình Thần hoặc tượng hình hạc qui để nơi các Thánh Đường hay tạc hình ông tà ông tướng để thờ các nơi miểu môn am tự hằng ngày có nhơn sanh sùng bái chiêm ngưỡng làm Thần Thánh. Các em muốn mình sẽ là những khúc gỗ nào hở các em?
… Sự lễ bái, tụng kinh, ăn chay, niệm Phật là phương tiện để cho thân được an tâm được định, tánh được thuần, nghiệp quả sớm tiêu mòn để không còn nhiều chướng ngại vật khảo đảo thân tâm các em.
Vì vậy mà chị khuyên các em, ngoài những lãnh vực thường thức hằng ngày ấy, phải thêm công khó giúp đời mới tạo được vốn liếng âm chất ở phần vô vi thiêng liêng vĩnh cửu."
Kết hợp cả hai giai đoạn Tu Thân Lập Hạnh và Bồi Công Lập Đức, chúng ta hãy đọc tiếp đoạn Thánh giáo sau của Đức Liên Hoa Thánh Mẫu:
"Thiêng Liêng thường dạy các môn đồ tu thân lập hạnh bồi công lập đức, nhưng người hiểu được chấp hành được, kể ra cũng hiếm có.
Do đó, trong hàng chức việc chức sắc Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ nói riêng và trong lãnh vực các tôn giáo khác nói chung, thường vấp phải và tự thán rằng tôi đã nhiều tuổi đạo, đã tốn phí lắm của nhiều công, đã hy sinh những thụ hưởng xa hoa phù phiếm để phục vụ đạo lý nhưng sao thường khi lại bị đồng đạo khinh thường gièm pha chỉ trích, đừng nói chi đến kính nể mến yêu.
Đó là tại chưa hiểu và chấp hành được tác phong đạo đức và công đức phẩm hạnh."
- Bảy là THÁNH THIỆN, THÁNH TÂM hay GIẢI THOÁT:
Xuyên qua một đoạn đường dài từ ngày nhập môn, giữ đạo, học đạo, hiểu đạo, tu thân cho đến hành đạo là khoảng thời gian chuẩn bị, để kiện toàn cho ngày phát Thánh Tâm, hiện Thánh Ý hành Thánh Sự để đến giải thoát.
Giải thoát nói đây không phải lìa bỏ nhục thể hay trốn lánh nợ đời. Giải thoát nói đây có nghĩa là hàng Thánh thiện bực siêu nhân tuy ở tại cõi phàm gian ô trọc, mà lòng chẳng nhiễm bụi trần ô trọc, luôn luôn đem những kiến thức cao siêu giúp đời độ thế trên đường thánh thiện.
Đó là giai đoạn đắc quả tại trần.
Trải qua sáu giai đoạn đầu, người đạo hữu đã trải qua biết bao nhiêu sự giũa rèn trui đúc từ nhục thể đến tư tưởng, từ ngoại thể đến nội tâm. Có như vậy mới trở nên hàng thượng đẳng chúng sanh.
Đừng bao giờ tưởng rằng mình nhập đạo lâu năm, đếm tuổi đạo làm nhiều để đo số lượng công quả. Đó là sai lầm! Nếu không học đạo, hiểu đạo, tu thân hành đạo, dầu có sống ngàn tuổi giữ ngàn năm thì phàm tục vẫn phàm tục. Đó là chưa kể đến những điều tội lỗi đã gây ra trong một thời gian dài đăng đẳng do tham, sân, si, dục.
Và cũng đừng hiểu lầm câu "tu nhứt kiếp, ngộ nhứt thời", rồi giải đãi không lo tu huệ, tự bào chữa rằng: cứ lo tu phước để nhiều kiếp luân hồi trở lại hưởng cảnh phú quý vinh hoa cho thỏa mãn, rồi một kiếp nào đó tu cũng thành có muộn gì đâu.
THI
Ráng lo tu tỉnh tập từng ngày,
Đừng để buông lung, phải trễ chầy;
Một kiếp tu hành muôn kiếp hưởng,
Phải lo công quả, hạnh cho dày.
(Đức Quan Âm, Minh Lý Thánh hội,
01.9 Kỷ Dậu, 11.10.1969)